Sách Công vụ các sứ đồ tường thuật cho chúng ta biết, các sứ đồ đã rao giảng về Vương quốc Đức Chúa Trời. Phi-líp đã đến Sa-ma-ri rao giảng “tin mừng về Vương quốc của Đức Chúa Trời và danh của Chúa Giê-su Christ” (Công vụ 8:12). Phao-lô đã đến Rô-ma và rao giảng trước tiên cho người Do Thái, sau đó cho dân ngoại, về Vương quốc của Đức Chúa Trời (Công vụ 28: 23, 31).
Khi các sứ đồ của Chúa chúng ta đi khắp đế quốc La Mã để rao giảng về Vương quốc, và ngày nay các môn đồ của Chúa Giê-su cũng đi khắp các lục địa để rao giảng về Vương quốc của Đức Chúa Trời, thì luôn có hai điều xảy ra: một số người được giải thoát trong khi những người khác bị trói buộc. Một số người tin và tiếp nhận sứ điệp. Họ được giải thoát khỏi quyền lực của bóng tối và được chuyển vào Vương quốc của Con Đức Chúa Trời (Cô-lô-se 1:13); nghĩa là họ bước vào Vương quốc của Đức Chúa Trời và họ nhận được phước lành của Vương quốc đó. Hơn nữa, họ được bảo đảm sẽ được vào Vương quốc của Đức Chúa Trời trong tương lai khi Đấng Christ đến trong vinh quang.Tuy nhiên, những người khác lại từ chối tin mừng về Vương quốc. Đối với họ, cánh cửa Vương quốc của Đức Chúa Trời, cả trong hiện tại và tương lai, đều đóng lại. Chúa Giê-su thực sự đã trao cho các môn đồ của Ngài, cho Hội thánh, chìa khóa của Vương quốc thiên đàng; và những gì các môn đồ của Ngài đóng và mở trên đất khi họ rao giảng Phúc âm về Vương quốc sẽ được đóng và mở trên thiên đàng. Theo nghĩa thực sự của từ này, chính Hội thánh – các môn đồ của Chúa – là những người sử dụng chìa khóa và thực hiện chức năng trói buộc và cởi mở; nhưng theo nghĩa sâu xa hơn, chính sự vận hành của Vương quốc Đức Chúa Trời thông qua Hội thánh đã hoàn thành những mục đích vĩnh cửu này.
Lẽ thật quan trọng là: Vương quốc Đức Chúa Trời không hoạt động trong không khí mà được giao phó cho con người và hoạt động thông qua những người được cứu chuộc đã hiến mình cho sự cai trị của Đức Chúa Trời thông qua Chúa Giê-su. Có rất ít câu trong Tân Ước so sánh Vương quốc với Hội thánh, nhưng chính câu này ủng hộ kết luận của chúng ta. Khải huyền 5:9-10 viết, “Ngài đã bị giết và dùng huyết mình chuộc những người cho Đức Chúa Trời từ mọi chi phái, mọi tiếng, mọi dân tộc và mọi nước, và đã khiến họ trở thành một Vương quốc và các thầy tế lễ cho Đức Chúa Trời chúng ta, và họ sẽ trị vì trên đất.”
Dân sự của Đức Chúa Trời mà Vương quốc của Đức Chúa Trời đang hoạt động trong thời đại này là Hội thánh bao gồm phần lớn là dân ngoại; nhưng dân sự của Đức Chúa Trời mà Vương quốc sẽ đạt đến sự viên mãn sẽ bao gồm cả Y-sơ-ra-ên (Rô-ma 11:12). Tuy nhiên chỉ có một Vương quốc duy nhất, và một tập thể công dân duy nhất của Vương quốc.
Khía cạnh khó khăn nhất của lời dạy trong Kinh thánh về Vương quốc của Chúa là mối quan hệ của nó với Y-sơ-ra-ên và Hội thánh. Khó khăn nằm ở thực tế là mối quan hệ này không được nêu rõ trong Kinh thánh nhưng phải suy luận ra. Do đó, những người nghiên cứu Kinh thánh đã đưa ra những cách giải thích khác nhau.
Chúng ta đã nhìn thấy rằng Vương quốc của Đức Chúa Trời trong Tân Ước là công trình cứu chuộc của Chúa hoạt động trong lịch sử để đánh bại kẻ thù của Ngài, mang đến cho con người những phước lành của triều đại thần thánh. Cách tiếp cận này cho phép chúng ta giải thích nhất quán câu hỏi về Y-sơ-ra-ên và Hội thánh trong Tân Ước.
Không thể phủ nhận rằng Chúa Giê-su đã ban Vương quốc cho Y-sơ-ra-ên. Khi Ngài sai các môn đồ đi truyền giáo, Ngài đã bảo họ không được đi giữa dân ngoại mà “hãy đến với những con chiên lạc mất của nhà Y-sơ-ra-ên” (Ma-thi-ơ 10: 6). Chúa Giê-su đã từ chối một người phụ nữ Ca-na-an bằng những lời này, “Ta chỉ được sai đến cùng các con chiên lạc mất của nhà Y-sơ-ra-ên” (Ma-thi-ơ 15:24). Hơn nữa, Chúa chúng ta đã nói về người Do Thái như là “con cái của Vương quốc” (Ma-thi-ơ 8:12), mặc dù họ đã từ chối Đấng Mê-si và Vương quốc của Đức Chúa Trời. Họ là con cái của Vương quốc vì chính Y-sơ-ra-ên là tuyển dân mà Đức Chúa Trời đã chọn và đã hứa ban cho họ những phước lành của Vương quốc. Vương quốc thuộc về họ theo quyền được Đức Chúa Trời chọn. Vì vậy, Chúa Giê-su đã hướng chức vụ của Ngài đến họ và ban cho họ những điều đã được hứa. Nhưng khi Y-sơ-ra-ên từ chối Vương quốc, những phước lành đáng lẽ phải thuộc về họ đã được ban cho những người ngoại tiếp nhận chúng.
Điều này được thấy trong chuỗi các câu trong Ma-thi-ơ 11. “Quả thật, ta nói cùng các ngươi, trong những người bởi đàn bà sanh ra, không có ai được tôn trọng hơn Giăng Báp-tít, nhưng mà kẻ rất nhỏ hèn trong nước thiên đàng còn được tôn trọng hơn người. Song, từ ngày Giăng Báp-tít đến nay, nước thiên đàng bị hãm ép, và là kẻ hãm ép đó choán lấy” (câu 11-12).Thời đại của luật pháp và các tiên tri đã kết thúc khi Giăng Báp-tít thi hành chức vụ. Kể từ đó, Vương quốc đã hoạt động giữa loài người.
Điều này là ý nghĩa có khả năng nhất của Ma-thi-ơ 11:12-13. Câu 13 nêu rõ rằng “Song, từ ngày Giăng Báp-tít đến nay, nước thiên đàng bị hãm ép, và là kẻ hãm ép đó choán lấy.Vì hết thảy các đấng tiên tri và sách luật đã nói trước cho đến đời Giăng” và câu 12 nói rằng, “Từ thời Giăng Báp-tít cho đến bây giờ, vương quốc thiên đàng bị hãm ép, và những kẻ hung bạo đã chiếm lấy nó bằng vũ lực.” Đây là bản dịch được hiệu đính làm rõ hơn ý nghĩa của câu này.
Vương quốc của Đức Chúa Trời, như chúng ta đã thấy, là triều đại cứu chuộc của Đức Chúa Trời đang hoạt động giữa loài người; và đây là ý nghĩa của Ma-thi-ơ 11:12. Tuy nhiên, thế hệ Y-sơ-ra-ên đó đã không tiếp nhận công việc của Vương quốc Đức Chúa Trời, khi Giăng Báp-tít rao giảng về sự ăn năn để bước vào Vương quốc. Họ từ chối lời cảnh báo của Giăng Báp-tít. Và họ cũng từ chối lời mời gọi tương tự của Chúa Giê-su sau đó. Do đó, chỉ có sự phán xét dành cho thế hệ đó. “Vì dân các thành mà Đức Chúa Giê-su đã làm rất nhiều phép lạ rồi, không ăn năn, nên Ngài quở trách rằng…” (Ma-thi-ơ 11:20).
Chúng ta đọc tiếp, “Khốn nạn cho mầy, thành Cô-ra-xin! Khốn nạn cho mầy thành Bết-sai-đa! Vì nếu các phép lạ đã làm giữa bay, đem làm trong thành Ty-rơ và Si-đôn, thì hai thành đó thật đã mặc áo gai, đội tro, ăn năn từ lâu rồi. Vậy nên ta bảo bay, đến ngày phán xét, thành Ty-rơ và thành Si-đôn sẽ chịu đoán phạt nhẹ hơn bay. Còn mầy, Ca-bê-na-um là thành đã được cao tới trời, sẽ hạ xuống tới âm phủ! Vì nếu các phép lạ đã làm giữa mầy, đem làm trong thành Sô-đôm, thì thành ấy còn lại đến ngày nay. Vậy nên ta rao bảo rằng, đến ngày phán xét, xứ Sô-đôm sẽ chịu đoán phạt nhẹ hơn mầy” (Ma-thi-ơ 11:21-24)
Một tai họa khủng khiếp được tuyên bố trên các thành phố của Y-sơ-ra-ên như Cô-ra-xin và Bết-sai-đa. Chúa Giê-su đã xuất hiện trong các thành phố của họ, đuổi quỷ, giải cứu con người khỏi quyền lực của Sa-tan và rao giảng rằng Vương quốc Đức Chúa Trời đã đến với họ. Tuy nhiên, Y-sơ-ra-ên đã không đáp lại. Do đó, “vào ngày phán xét, xứ Sô-đôm sẽ chịu hình phạt nhẹ hơn.”
Lời mời nhận lãnh các phước lành của Vương quốc được đưa ra cho những ai tiếp nhận nó cách cá nhân. Chúa Giê-su phán, “Hỡi những kẻ mệt mỏi và gánh nặng, hãy đến cùng ta, ta sẽ cho các ngươi được yên nghỉ. Ta có lòng nhu mì, khiêm nhường; nên hãy gánh lấy ách của ta, và học theo ta; thì linh hồn các ngươi sẽ được yên nghỉ. Vì ách ta dễ chịu và gánh ta nhẹ nhàng” (Ma-thi-ơ 11:28-30).
ĐƠN VỊ NHẬN ĐƯỢC SỰ CỨU RỖI TRONG TÂN ƯỚC LÀ CÁ NHÂN
Trong thời Cựu Ước, Đức Chúa Trời đã đối xử với Y-sơ-ra-ên chủ yếu như một gia đình và một quốc gia và ban cho dân sự Ngài cả phước lành vật chất và thuộc linh. Khi Đức Chúa Trời lập giao ước với Áp-ra-ham, Áp-ra-ham đã lấy tất cả các thành viên nam trong gia đình mình và cắt bì cho họ, do đó đưa họ vào trong các điều khoản và phước lành của giao ước (Sáng thế ký 17: 22-27).
Lời giảng dạy của Chúa Giê-su về Vương quốc của Đức Chúa Trời không nói đến một vương quốc chính trị hữu hình, cũng không liên quan đến các phước lành của quốc gia hay vật chất. Người Do Thái muốn một vị vua chính trị lật đổ kẻ thù của họ; nhưng Chúa Giê-su đã từ chối một vương miện trần gian (Giăng 6:15). Chúa Giê-su nói chuyện với các cá nhân, và các điều kiện của mối quan hệ mới với Đức Chúa Trời chỉ là những quyết định cá nhân và bởi đức tin. Lẽ thật này được nêu rõ trong chức vụ chuẩn bị của Giăng Báp-tít, ông đã nói với các nhà lãnh đạo Do Thái giáo rằng dòng dõi của Áp-ra-ham phải kết quả xứng đáng với sự ăn năn, nếu không sẽ bị chặt bỏ. “Giăng thấy nhiều người dòng Pha-ri-si và Sa-đu-sê đến chịu phép báp-têm mình, thì bảo họ rằng: Hỡi dòng dõi rắn lục kia, ai đã dạy các ngươi tránh khỏi cơn giận ngày sau? Vậy, các ngươi hãy kết quả xứng đáng với sự ăn năn, và đừng tự khoe rằng: Áp-ra-ham là tổ chúng ta; vì ta nói cho các ngươi rằng Đức Chúa Trời có thể khiến đá nầy sanh ra con cái cho Áp-ra-ham được. Bây giờ cái búa đã để kề rễ cây; vậy hễ cây nào không sanh trái tốt, thì sẽ phải đốn và chụm” (Ma-thi-ơ 3:7-10).
Các phước lành thiêng liêng của kỷ nguyên mới sẽ được ban cho từng cá nhân chứ không phải trên cơ sở gia đình. Ngay cả những người tự coi mình là con cái của giao ước cũ – là giao ước mà Đức Chúa Trời đã lập với Áp-ra-ham cũng phải trải qua sự ăn năn cá nhân, chịu phép báp têm để được tha tội và bước vào Vương quốc.
Chúa Giê-su cũng làm rõ điều này khi Ngài tuyên bố, “Chớ tưởng rằng Ta đến để đem hòa bình cho thế gian; Ta đến không phải để đem hòa bình, mà là để đem gươm giáo. Vì Ta đến để phân rẽ con trai với cha mình, con gái với mẹ mình, con dâu với mẹ chồng mình; và kẻ thù của người ta sẽ là người nhà mình” (Ma-thi-ơ 10: 35-36). Đơn vị gia đình không còn là nền tảng của mối quan hệ giữa Đức Chúa Trời và con người nữa. Đức tin cá nhân thường chia cắt các thành viên trong gia đình và thậm chí phá vỡ mối quan hệ huyết thống là nền tảng cơ bản của mối quan hệ giữa con người với Vương quốc của Đức Chúa Trời.
Người Do Thái nói chung đã từ chối mối quan hệ mới này. Tuy nhiên, có một số người đã đáp lại và trở thành môn đồ của Chúa Giê-su và do đó trở thành con cái đích thực của Vương quốc Đức Chúa Trời. Những người này đã trở nên những hạt nhân của Hội thánh Tân ước.
HỘI THÁNH ĐƯỢC HÌNH THÀNH
Chương 16 sách Ma-thi-ơ kể lại mục đích của Chúa chúng ta trong việc hình thành nên một tập thể dân mới của Chúa, tức là Hội thánh. Điều quan trọng là Chúa Giê-su không thể nói gì về mục đích cứu chuộc của Ngài là đưa dân mới của Ngài vào thực tế hội thánh cho đến khi các môn đồ nhận ra rằng Ngài là Đấng Mê-si.
Lời xác nhận về chức vụ Đấng Mê-si của Ngài đồng thời cũng là lời tuyên xưng về sự hiện diện của Vương quốc Đức Chúa Trời, vì sứ mệnh của Đấng Mê-si là mang Vương quốc Đức Chúa Trời đến với con người. Tại thời điểm này, chúng ta phải hiểu rằng đối với các môn đồ, có một vấn đề trong việc công nhận chức vụ Đấng Mê-si của Chúa Giê-su cũng như có một vấn đề trong việc họ công nhận sự hiện diện của Vương quốc Đức Chúa Trời.
Chúng ta đã khám phá ra rằng kỳ vọng phổ biến về sự xuất hiện của Vương quốc Đức Chúa Trời có nghĩa là sự kết thúc của thời đại và sự biểu hiện của sự cai trị của Đức Chúa Trời trong quyền năng và vinh quang, khi mọi điều ác sẽ bị thanh trừng khỏi trái đất. Tuy nhiên, Chúa Giê-su đã dạy rằng Vương quốc đã đến nhưng dưới một hình thức mới và bất ngờ. Mặc dù thời đại cũ vẫn tiếp diễn, Vương quốc Đức Chúa Trời đã chinh phục vương quốc của Sa-tan để giải cứu con người khỏi sự cai trị của nó. Đây là điều bí ẩn nhưng được tiết lộ về trong sứ mệnh của Cứu Chúa chúng ta.
Trong nhận thức của người Do Thái, bao gồm cả các môn đồ của Chúa Giê-su trong thế kỷ thứ nhất, Đấng Mê-si được mong đợi là một vị Vua từ dòng dõi Đa-vít đánh bại kẻ thù. Hoặc Ngài sẽ là một đấng siêu nhiên từ trời đến trái đất với quyền năng và vinh quang lớn lao để tiêu diệt kẻ ác và đưa Vương quốc của Đức Chúa Trời đến (xem Đa-ni-ên 7). Trong cả hai trường hợp, sự xuất hiện của Đấng Mê-si sẽ có nghĩa là sự kết thúc của thời đại này và sự xuất hiện của Vương quốc Đức Chúa Trời trong quyền năng và vinh hiển.
CHỨC VỤ CỦA CHÚA GIÊ-SU KHI NGÀI ĐẾN TRẦN GIAN LẦN THỨ NHẤT
Tuy nhiên Chúa Giê-su không xuất hiện như một vị Vua vĩ đại chinh phục hay một Người từ trời xuống cách siêu phàm. Ngài là một con người ở giữa loài người trong sự khiêm nhường và yếu đuối (theo cách nhìn của con người). Mọi người không thể hiểu Ngài là Đấng Mê-si của họ mặc dù Ngài đã thực hiện giữa họ những công việc kỳ diệu. Có một lần, họ nghĩ rằng Ngài thực sự có thể là Đấng Mê-si, và họ đã cố gắng ép buộc Ngài làm Vua. Sau khi Chúa Giê-su cho năm ngàn người ăn, với năm cái bánh và hai con cá để nuôi sống một đám đông, họ đã đến để bắt ép Ngài làm Vua. “Những người đó thấy phép lạ Đức Chúa Giê-su đã làm, thì nói rằng: Người nầy thật là Đấng tiên tri phải đến thế gian. Bấy giờ Đức Chúa Giê-su biết chúng có ý đến ép Ngài để tôn làm vua, bèn lui ở một mình trên núi” (Giăng 6:14-15).
Tuy nhiên, đó không phải là sứ mệnh của Chúa chúng ta. Sứ mệnh của Ngài, cũng như chức vụ Đấng Mê-si của Ngài, là một “bí ẩn”; không phải là để chấm dứt thời đại tà ác và mở ra thời đại sắp tới. Mà là để mang các quyền năng của thời đại tương lai đến với con người trong hiện tại.
Sứ mệnh này liên quan đến cái chết của Ngài. Do đó, khi đám đông cố gắng tôn Ngài làm vua, Ngài đã rút lui. Đây là bước ngoặt trong chức vụ của Ngài; và sau đó, “nhiều môn đồ của Ngài đã thối lui và không còn đi với Ngài nữa” (Giăng 6: 66). Vì họ cho rằng Ngài không phải là Đấng Mê-si mà họ đang tìm kiếm.
Trong phúc âm Giăng 6:51-53, Chúa Giê-su dạy, “Ta là bánh hằng sống từ trên trời xuống; nếu ai ăn bánh ấy, thì sẽ sống vô cùng; và bánh mà ta sẽ ban cho vì sự sống của thế gian tức là thịt ta. Bởi đó, các người Giu-đa cãi lẽ với nhau, mà rằng: Lẽ nào người nầy lấy thịt mình cho chúng ta ăn sao? Đức Chúa Giê-su bèn phán cùng họ rằng: Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, nếu các ngươi không ăn thịt của Con người, cùng không uống huyết Ngài, thì chẳng có sự sống trong các ngươi đâu.”
Vào lúc đó người Do Thái không hiểu những lời dạy này của Chúa.
Sự thật là, người Do Thái vào thời Chúa chúng ta không hiểu chương 53 của sách Ê-sai. Họ không biết rằng nó có liên quan đến Đấng Mê-si. Họ chỉ đang tìm kiếm một Vua chiến thắng hoặc một Con Người từ trời xuống đầy uy lực, chứ không phải một Tôi Tớ Chịu Khổ. Do đó, họ đã quay lưng và từ chối theo Ngài. Và khi họ từ chối lời giảng dạy của Ngài về Vương quốc vì đó không phải là điều họ đang tìm kiếm, thì họ cũng từ chối địa vị Đấng Mê-si của Ngài vì Ngài không phải là vị vua chinh phục, một vị vua trần gian đánh bại đế quốc Rô-ma mà họ mong muốn.
Tuy nhiên, cuối cùng, nhóm mười hai sứ đồ thân cận bắt đầu nhận ra rằng mặc dù Vương quốc không hiện diện với quyền năng mạnh mẽ theo cách nghĩ của con người. Chúa Giê-su không phải là Vua theo mong đợi của người Do thái lúc bấy giờ, nhưng Ngài vẫn là Đấng Mê-si và Vương quốc thực sự hiện diện trong Con người và sứ mệnh của Ngài. Đây chính là ý nghĩa của lời tuyên xưng của Phi-e-rơ tại Sê-sa-rê Phi-líp. Vào lúc đó Chúa Giê-su nhận ra rằng các môn đồ đã đi đến một điểm quan trọng về sự hiểu biết cơ bản, và Ngài hỏi các môn đồ rằng Ngài là ai. Cuối cùng, Si-môn Phi-e-rơ đã nói thay cho những người khác: “Ngài là Đấng Christ, Con Đức Chúa Trời hằng sống” (Ma-thi-ơ 16:16). Chúng ta thường không nhận ra rằng Phi-e-rơ và những người khác khó khăn như thế nào để nhận ra địa vị Đấng Mê-si của Chúa Giê-su vì nó hoàn toàn khác biệt so với bất kỳ điều gì họ mong đợi. Đó thực sự là một sự nhận thức mà con người chỉ có thể nhận ra thông qua chính sự mặc khải của Đức Chúa Trời. Chúa Giê-su xác nhận với vị sứ đồ, “Hỡi Si-môn, con Giô-na, ngươi có phước đó; vì chẳng phải thịt và huyết tỏ cho ngươi biết điều nầy đâu, bèn là Cha ta ở trên trời vậy. Còn ta, ta bảo ngươi rằng: Ngươi là Phi-e-rơ, ta sẽ lập Hội thánh ta trên vầng đá nầy…” (Ma-thi-ơ 16:17-18).
Tên Si-môn được đổi thành Phi-e-rơ – có nghĩa là một viên đá nhỏ. Và ông sẽ được Chúa sử dụng như một viên đá nhỏ được xây dựng trên một vầng đá lớn (là chính Chúa Giê-su) để hình thành hội thánh.
Một khi họ đã nhận ra rằng Ngài là Đấng Mê-si, mặc dù trong một vai trò mới và bất ngờ, Chúa Giê-su đã chỉ dẫn họ về mục đích tiếp theo của Ngài. Mục đích của Ngài không phải là khôi phục quốc gia Y-sơ-ra-ên. Ngược lại, Ngài sẽ tạo ra một dân tộc mới. “Còn Ta bảo ngươi, ngươi là Phi-e-rơ, trên vầng đá nầy Ta sẽ xây dựng Hội thánh Ta, và các cửa âm phủ (quyền lực của sự chết) sẽ không thắng được Hội thánh. Ta sẽ trao cho ngươi chìa khóa của vương quốc thiên đàng cho ngươi, và bất cứ điều gì ngươi buộc dưới đất sẽ bị buộc trên trời, và những gì ngươi mở dưới đất sẽ được mở trên trời” (Ma-thi-ơ 16:18-19).
Ý nghĩa của “vầng đá” mà Chúa Giê-su xây dựng Hội thánh của Ngài đã được tranh luận sôi nổi. Cho dù vầng đá đó là đức tin của Phi-e-rơ vào Đấng Mê-si và thần tính của Đấng Christ cho dù đó là chính con người của Đấng Christ, hay có một ý nghĩa nào khác, thì Phi-e-rơ, với tư cách là người phát ngôn cho nhóm mười hai sứ đồ và của Hội thánh trong những năm đầu tiên. Không có bằng chứng nào trong Tân Ước cho thấy Phi-e-rơ được trao một thẩm quyền chính thức mà ông có thể truyền lại cho người khác (theo quan điểm của người Công giáo). Tuy nhiên, trên thực tế, Hội thánh được “xây dựng trên nền tảng của các sứ đồ và các tiên tri, chính Chúa Giê-su Christ là đá góc nhà” (Ê-phê-sô 2: 20); và chúng ta có thể gọi Phi-e-rơ là khuôn mặt đại diện của nhóm mười hai sứ đồ mà Hội thánh được dựng nên trên đó.
Trong mọi trường hợp, Chúa chúng ta chỉ ra mục đích của Ngài là xây dựng Hội thánh của Ngài. Từ Hy Lạp ekklesia1 được dịch hội thánh là từ được sử dụng phổ biến nhất trong Cựu Ước để chỉ dân Y-sơ-ra-ên là tuyển dân của Đức Chúa Trời. Chính việc sử dụng từ này cho thấy rằng Chúa Giê-su có mục đích tạo ra một dân tộc mới để thay thế dân Y-sơ-ra-ên đã từ chối cả lời tuyên bố về Đấng Mê-si của Ngài và lời Ngài giảng về Vương quốc Đức Chúa Trời. Sự ứng nghiệm của lời hứa này bắt đầu vào Lễ Ngũ Tuần khi Đức Thánh Linh được đổ ra để làm báp têm cho những người theo Chúa Giê-su vào thân thể của Đấng Christ và do đó về mặt lịch sử đã khai sinh ra Hội thánh đầu tiên. Phao-lô viết:
“Vì chưng chúng ta hoặc người Giu-đa, hoặc người Gờ-réc, hoặc tôi mọi, hoặc tự chủ, đều đã chịu phép báp-tem chung một Thánh Linh để hiệp làm một thân; và chúng ta đều đã chịu uống chung một Thánh Linh nữa” (1 Cô-rinh-tô 12:13).
VƯƠNG QUỐC ĐỨC CHÚA TRỜI VÀ HỘI THÁNH
Mối quan tâm hiện tại của chúng ta là tìm hiểu về mối quan hệ giữa Vương quốc của Đức Chúa Trời và Hội thánh. Chúa Giê-su đã hứa sẽ trao cho Phi-e-rơ, với tư cách là đại diện của các sứ đồ và Hội thánh, chìa khóa của Vương quốc Thiên đàng. Chúng ta đã nhận thấy rằng Vương quốc của Đức Chúa Trời trước hết có nghĩa là hoạt động cứu chuộc và sự cai trị của Đức Chúa Trời giữa loài người; và thứ hai là nơi mà loài người trải nghiệm các phước lành thông qua sự cai trị của Đức Chúa Trời.2
Chìa khóa của Vương quốc Thiên đàng hay vương quốc Đức Chúa Trời trong tương lai, tức là quyền năng mở hoặc đóng cánh cửa dẫn đến các phước lành của thời đại sắp đến sẽ được trao cho các sứ đồ của Hội thánh. Vương quốc Đức Chúa Trời không còn hoạt động trên thế giới thông qua Y-sơ-ra-ên nữa; mà thay vào đó, nó hoạt động thông qua Hội thánh.
Sự hiểu biết này được chứng minh bằng câu nói của Chúa Giê-su trong Lu-ca 11:52. Chúa Giê-su đã lên án các thầy thông giáo vì họ đã “cướp mất chìa khóa của sự hiểu biết; chính các ngươi đã không vào, mà lại ngăn cản những người muốn vào.” Chìa khóa của sự hiểu biết, chìa khóa mở cánh cửa của Vương quốc Chúa, đã được giao cho các nhà lãnh đạo tôn giáo của dân Do Thái. Chìa khóa này là sự hiểu biết và diễn giải đúng đắn về Cựu Ước, lẽ ra phải dẫn dắt người Do Thái nhận ra chức vụ của Chúa Giê-su, sự hiện diện của Vương quốc Đức Chúa Trời và sự ứng nghiệm của những lời hứa. Phao-lô đã bày tỏ sự thật tương tự khi ông nói rằng Đức Chúa Trời đã giao phó cho Y-sơ-ra-ên những lời phán của Đức Chúa Trời. “Lời phán của Đức Chúa Trời đã phó cho dân Giu-đa” (Rô-ma 3:2). Tuy nhiên, các thầy thông giáo đã lấy đi chìa khóa tri thức; họ đã diễn giải Kinh thánh theo cách rời xa Đấng Christ thay vì nhận ra Ngài là Đấng đã đến làm ứng nghiệm các lời tiên tri. Vì vậy, họ từ chối bước vào Vương quốc phước lành mà Chúa Giê-su mang đến, và họ cản trở những người khác muốn bước vào.
Vào một dịp khác, Chúa Giê-su đã nói với những nhà lãnh đạo tôn giáo này, “Những người thâu thuế và phường đĩ điếm vào Vương quốc Đức Chúa Trời trước các ngươi” (Ma-thi-ơ 21:31).Trên thực tế, họ đứng sang một bên và đánh mất phước hạnh Chúa dành cho họ.
Chìa khóa tri thức này vốn được giao phó cho Y-sơ-ra-ên trong thời Cựu Ước, giờ đây được Chúa chúng ta giao phó cho các sứ đồ và Hội thánh. Sự kiện này được dạy rõ ràng trong dụ ngôn về những người được thuê làm vườn nho trong Ma-thi-ơ 21:33-42. Đức Chúa Trời đã giao phó vườn nho của Ngài cho Y-sơ-ra-ên. Thỉnh thoảng Ngài sai các tôi tớ của Ngài, các tiên tri, đến để tính sổ, “người chủ sai đầy tớ đến cùng bọn trồng nho, đặng thâu hoa lợi. Bọn trồng nho bắt các đầy tớ, đánh người nầy, giết người kia, và ném đá người nọ.” Cuối cùng, Ngài sai Con Ngài đến, nghĩ rằng họ sẽ tôn kính và thừa nhận. “Nhưng khi bọn trồng nho thấy con đó, thì nói với nhau rằng: Người nầy là kẻ kế tự đây; hè! hãy giết nó đi, và chiếm lấy phần gia tài nó. Họ bèn bắt con ấy, quăng ra ngoài vườn nho, và giết đi (Ma-thi-ơ 21:38-39).
Chính Chúa Giê-su đã giải thích dụ ngôn này một cách rõ ràng: “Ta phán cùng các ngươi, nước Đức Chúa Trời sẽ cất khỏi các ngươi, và cho một dân khác là dân sẽ có kết quả của nước đó” (Ma-thi-ơ 21: 43).
VỊ TRÍ CỦA Y-SƠ-RA-ÊN TRONG CHƯƠNG TRÌNH CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI
Đây là một tuyên bố rõ ràng. Y-sơ-ra-ên đã là những người sở hữu Vương quốc của Đức Chúa Trời. Điều này có nghĩa là cho đến thời điểm Đấng Christ giáng sinh, hoạt động cứu chuộc của Đức Chúa Trời trong lịch sử đã được truyền qua quốc gia Y-sơ-ra-ên và các phước lành của Vương quốc đã được ban cho dân tộc này. Con cái Y-sơ-ra-ên thực sự là con cái của Vương quốc. Người ngoại bang chỉ có thể chia sẻ những phước lành này bằng cách bước vào mối quan hệ với Y-sơ-ra-ên. Tuy nhiên, khi đến lúc Đức Chúa Trời thể hiện hoạt động cứu chuộc của Ngài theo một cách mới mẻ. Y-sơ-ra-ên đã từ chối cả Vương quốc và Đấng đem Vương quốc đến. Do đó, Vương quốc trong biểu hiện mới của nó đã bị tước khỏi Y-sơ-ra-ên và trao cho một dân tộc mới là hội thánh.
Tới đây có một câu hỏi quan trọng khác: Có phải hội thánh đã thay thế vị trí của Y-sơ-ra-ên? Các lời hứa của Đức Chúa Trời dành cho Y-sơ-ra-ên có bị mất hiệu lực không?
Trong những phần tiếp theo sau, người viết sẽ đưa ra câu trả lời. Nhưng trước tiên, chúng ta nhìn vào giao ước của Đức Chúa Trời với tuyển dân.
GIAO ƯỚC CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI VỚI Y-SƠ-RA-ÊN LÀ MỘT GIAO ƯỚC VÔ ĐIỀU KIỆN
Mục sư, nhà chú giải Kinh thánh David Hocking đã viết trong sách Thần học thay thế:
“Một giao ước vô điều kiện có thể được định nghĩa như là một hành động tối cao của sự cai trị tuyệt đối từ Đức Chúa Trời, nhờ đó Ngài bắt buộc phải thực hiện những lời hứa, sự ban phước cho tuyển dân ở dưới giao ước.
Những giao ước vô điều kiện được thực hiện một cách đơn phương và đặc điểm của nó là lời hứa từ Đức Chúa Trời: Ta sẽ… chắc chắn Ngài sẽ làm chính xác những gì Ngài đã hứa. Đó chính là sự thành tín của Đức Chúa Trời bảo đảm cho những lời hứa của Ngài.”3
Giao ước quan trọng nhất của Đức Chúa Trời là Ngài làm cho Áp-ra-ham trở nên tổ phụ của tất cả những người đặt niềm tin vào Đức Chúa Trời. Sáng thế ký 12:1-3 cho chúng ta biết những chi tiết của giao ước không điều kiện nầy:
Vả, Đức Giê-hô-va có phán cùng Áp-ram rằng: Ngươi hãy ra khỏi quê hương, vòng bà con và nhà cha ngươi, mà đi đến xứ ta sẽ chỉ cho.
Ta sẽ làm cho ngươi nên một dân lớn; ta sẽ ban phước cho ngươi, cùng làm nổi danh ngươi, và ngươi sẽ thành một nguồn phước.
Ta sẽ ban phước cho người nào chúc phước ngươi, rủa sả kẻ nào rủa sả ngươi; và các chi tộc nơi thế gian sẽ nhờ ngươi mà được phước.
Sáng thế ký 15:18 đề cập một lần nữa giao ước vô điều kiện của Đức Chúa Trời về một vùng đất:
Ngày đó, Đức Giê-hô-va lập giao ước cùng Áp-ram, mà phán rằng: Ta cho dòng dõi ngươi xứ nầy, từ sông Nil ở tại xứ Ê-díp-tô cho đến sông lớn kia, tức sông Ơ-phơ-rát,
Trong Sáng thế ký 17: 9-14 dấu hiệu của dòng dõi Áp-ra-ham là phải chịu phép cắt bì. (Điều này bày tỏ đức tin của những người làm cha mẹ vâng phục lời Đức Chúa Trời làm phép cắt bì cho những bé trai khi chúng được tám ngày tuổi). Trong Sáng thế ký 17:7, chúng ta được biết rằng đây là một giao ước đời đời. Và trong câu 8 nhấn mạnh rằng: Ta sẽ cho ngươi cùng dòng dõi ngươi xứ mà ngươi đương kiều ngụ, tức toàn xứ Ca-na-an, làm cơ nghiệp đời đời.
Có nhiều điều Y-sơ-ra-ên đã làm trong quá khứ là không đúng. Tội lỗi và sự không vâng lời của họ khiến họ thường xuyên bị Đức Chúa Trời phán xét (Lê-vi-ký 26:40-43; Thi thiên 89:30-32). Nhưng không một tội nào trong quá khứ của họ sẽ hủy bỏ giao ước vô điều kiện và đời đời của Đức Chúa Trời dành cho họ.
Tiến sĩ Arnold Fruchtenba trong tác phẩm Thần học Y-sơ-ra-ên đã đưa ra 5 điểm về giao ước của Đức Chúa Trời dành cho Y-sơ-ra-ên (một giao ước vô điều kiện và đời đời):
1. Đó là một giao ước hoàn toàn sáng tỏ từng chữ.
2. Một giao ước đời đời.
3. Giao ước nầy không bị hủy bỏ bởi tội lỗi và sự bất tuân của Y-sơ-ra-ên.
4. Nó được thiết lập với một dân tộc đặc biệt là Y-sơ-ra-ên.
5. Hầu hết những điều khoản của nó không có hiệu lực ngay tức thì. (Phải trải qua nhiều thế hệ)
Vào thời điểm giao ước được ký hay đóng ấn, có ba điều đã xảy ra: Một số điều khoản có hiệu lực ngay tức khắc; Một số có hiệu lực trong một tương lai gần; Một số có hiệu lực trong một tương lai xa.
Giao ước giữa Đức Chúa Trời với Áp-ra-ham là một giao ước đời đời, không thể hủy bỏ được. Nó được củng cố qua Y-sác (Sáng. 26:2-4, 24) và con trai của Y-sác là Gia-cốp (Sáng. 28:13-15; 35:10-12) và rồi được thực hiện cho 12 con của Gia-cốp, mà sau nầy trở thành 12 chi phái Y-sơ-ra-ên (Sáng. 49:28) khi Đức Chúa Trời nhớ lại giao ước của Ngài (Xuất-ê-díp-tô ký 2:24-25; 6:2-8).
Chúa Giê-su phán dạy Phi-e-rơ, “Trên đá này, Ta sẽ xây dựng Hội thánh của Ta.” Trong câu nói này, từ “Hội thánh” vẫn chưa có ý nghĩa rõ ràng như nó có được sau Lễ Ngũ tuần. Như chúng ta đã chỉ ra, từ này có nghĩa là dân sự của Chúa. Dân tộc mới này là “dòng giống được lựa chọn, chức tư tế hoàng gia, dân thánh” mà Phi-e-rơ đã nói đến (1 Phi-e-rơ 2: 9). Vương quốc của Chúa hiện nay không thuộc về dòng giống Áp-ra-ham mà thuộc về “dòng giống được lựa chọn”, vì “những người có đức tin là con cháu của Áp-ra-ham” (Ga-la-ti 3:7). Đó không phải là quyền sở hữu chức tư tế của dân Y-sơ-ra-ên, vì Đấng Christ đã khiến những người tạo nên Hội thánh của Ngài trở thành “các thầy tế lễ cho Đức Chúa Trời và Cha của Ngài” (Khải huyền 1:6). Bây giờ, Chúa không còn đối phó với một dân tộc theo phả hệ, mà với một dân tộc thánh là Hội thánh, trên cơ sở đức tin cứu rỗi cá nhân nơi Chúa Giê-su, Con Đức Chúa Trời.
Mối quan hệ giữa Hội thánh và Vương quốc của Đức Chúa Trời phải được thiết lập rõ ràng. Vương quốc của Đức Chúa Trời trước hết là sự cứu chuộc thiêng liêng được biểu hiện trong Đấng Christ, và thứ hai là phạm vi mà các phước lành của Vương quốc có thể được trải nghiệm. Những sự phân biệt này cần được làm cho sáng tỏ. Là sự cứu chuộc thiêng liêng của Đức Chúa Trời, Vương quốc của Đức Chúa Trời đã đến giữa loài người để đánh bại Sa-tan và để giải thoát con người khỏi sự thống trị của quyền lực ma quỷ (Ma-thi-ơ 12:28). Vì đây là một thế giới hiện tại mà những phước lành này được hưởng, nên con người giờ đây có thể bước vào Vương quốc của Chúa. Kỷ nguyên của luật pháp và các tiên tri đã kết thúc với Giăng Báp-tít. Từ thời điểm đó, Vương quốc của Chúa đã được rao giảng và tất cả những ai nhận được thông báo đều mạnh mẽ, thậm chí dùng “sức mạnh”, bước vào trong Vương quốc. “Luật pháp và các lời tiên tri có đến đời Giăng mà thôi; từ đó tin lành của nước Đức Chúa Trời được truyền ra, và ai nấy dùng sức mạnh mà vào đó” (Lu-ca 16:16). Tất cả những ai đã nhận được tin mừng cứu chuộc này đều đã được “giải thoát khỏi quyền thống trị của sự tối tăm (2 Cô-rinh-tô 4:4) và được chuyển đến Vương quốc của Con yêu dấu của Ngài” (Cô-lô-se 1:13).
VƯƠNG QUỐC ĐỨC CHÚA TRỜI VÀ VƯƠNG QUỐC ĐẤNG CHRIST
Vương quốc của Đức Chúa Trời đồng thời là Vương quốc của Đấng Christ (Ê-phê-sô 5:5); vì Vương quốc của Đức Chúa Trời, triều đại cứu chuộc của Đức Chúa Trời, được biểu lộ giữa loài người qua thân vị của Đấng Christ, và chính Đấng Christ phải trị vì cho đến khi Ngài đặt mọi kẻ thù dưới chân Ngài (1 Cô-rinh-tô 15:25). Thật vậy, nếu có bất kỳ sự phân biệt nào giữa Vương quốc của Đức Chúa Trời và của Đấng Christ, chúng ta phải nói rằng Vương quốc của Đấng Christ bao gồm giai đoạn từ khi Ngài đến trong xác thịt cho đến khi kết thúc triều đại một ngàn năm của Ngài. Và “cuối cùng sẽ đến là lúc Ngài sẽ giao nước lại cho Đức Chúa Trời là Cha, sau khi Ngài đã phá diệt mọi đế quốc, mọi quyền cai trị, và mọi thế lực” (1 Cô-rinh-tô 15:24).
Vương quốc của Đức Chúa Trời, với tư cách là hoạt động cứu chuộc và sự cai trị của Đức Chúa Trời trong Đấng Christ, đã tạo ra Hội thánh và hoạt động thông qua Hội thánh trên thế giới. Khi các môn đồ của Chúa đi khắp các làng mạc của Palestine, họ tuyên bố rằng, Vương quốc của Đức Chúa Trời đã đến gần những ngôi làng này (Lu-ca 10:9). Họ đã thực hiện các dấu hiệu của Vương quốc, chữa lành người bệnh, đuổi quỷ, do đó giải cứu con người khỏi quyền lực của Sa-tan (Lu-ca 10: 9, 17). Bất kỳ thành phố nào từ chối họ thì cũng từ chối Vương quốc của Chúa và tự dành cho mình một sự phán xét đáng sợ, vì trong sứ mệnh của các môn đồ, họ cảnh báo cho những nơi từ chối Phúc âm: “vương quốc của Đức Chúa Trời đã đến gần các ngươi rồi” (câu 11). Do đó, Vương quốc của Chúa đã hoạt động giữa loài người không chỉ trong chức vụ của Chúa Giê-su mà còn qua các môn đồ khi họ mang Lời Chúa và các dấu hiệu của Vương quốc đến các thành phố của Ga-li-lê.
SỨ MẠNG CỦA HỘI THÁNH LÀ RAO GIẢNG VƯƠNG QUỐC
Tương tự như vậy, Vương quốc của Chúa, hoạt động cứu chuộc và quyền năng của Chúa, đang hoạt động trên thế giới ngày nay thông qua Hội thánh của Đức Chúa Trời. Hội thánh là sự hiệp thông của các môn đồ của Chúa Giê-su, những người đã tiếp nhận sự sống của Vương quốc và có nhiệm vụ rao giảng Phúc âm về Vương quốc trên khắp thế giới. Phi-líp đã đến Sa-ma-ri rao giảng “tin mừng về Vương quốc Đức Chúa Trời và danh Chúa Giê-su Christ” (Công vụ 8: 12). Phao-lô đã đến Rô-ma và rao giảng trước tiên cho người Do Thái, sau đó cho dân ngoại, về Vương quốc của Đức Chúa Trời (Công vụ 28: 23, 31).
Khi các sứ giả của Chúa chúng ta đi khắp thế giới La Mã để rao giảng về Vương quốc và ngày nay các môn đồ của Chúa Giê-su cũng đi khắp các lục địa để rao giảng về Vương quốc của Đức Chúa Trời, thì luôn có hai điều xảy ra: một số người được giải thoát trong khi những người khác bị trói buộc. Một số người tin và tiếp nhận sứ điệp. “Ngài đã giải thoát chúng ta khỏi quyền của sự tối tăm, làm cho chúng ta dời qua nước của Con rất yêu dấu Ngài” (Cô-lô-se 1:13); nghĩa là, họ bước vào Vương quốc của Đức Chúa Trời vì họ nhận được phước lành của Vương quốc đó. Hơn nữa, họ được bảo đảm sẽ được vào Vương quốc của Đức Chúa Trời trong tương lai khi Đấng Christ đến trong vinh quang.
Tuy nhiên, những người khác lại từ chối tin mừng về Vương quốc. Đối với họ, cánh cửa Vương quốc của Đức Chúa Trời, cả trong hiện tại và tương lai, đều đóng lại. Chúa Giê-su đã trao cho các môn đồ của Ngài, cho Hội thánh, chìa khóa của Vương quốc Thiên đàng; và những gì các môn đồ của Ngài ràng buộc trên đất khi họ rao giảng Phúc âm về Vương quốc sẽ được ràng buộc trên thiên đàng; và những gì họ cởi mở trên đất, tức là những người mà họ cởi mở khỏi tội lỗi sẽ được cởi mở trên thiên đàng. Theo nghĩa thực sự của từ này, chính Hội thánh – các môn đồ của Chúa – là những người sử dụng chìa khóa và thực hiện chức năng trói buộc và cởi mở. Nhưng theo nghĩa sâu xa hơn, chính sự vận hành của Vương quốc Đức Chúa Trời thông qua Hội thánh đã hoàn thành những mục đích vĩnh cửu này. Sự thật quan trọng là: Vương quốc Đức Chúa Trời không hoạt động trong chân không mà được giao phó cho con người và hoạt động thông qua những người được cứu chuộc đã hiến mình cho sự cai trị của Đức Chúa Trời thông qua Chúa Giê-su.
Có rất ít câu trong Tân Ước so sánh Vương quốc với Hội thánh, nhưng chính những câu này ủng hộ kết luận của chúng ta. Khải huyền 5:9-10 viết, “Ngài đã bị giết và dùng huyết mình chuộc những người cho Đức Chúa Trời từ mọi chi phái, mọi tiếng, mọi dân tộc và mọi nước, và đã khiến họ trở thành một Vương quốc và các thầy tế lễ cho Đức Chúa Trời chúng ta, và họ sẽ trị vì trên đất.” Bài ngợi ca mới này được bốn con sanh vật hai mươi bốn trưởng lão xác định tất cả những người được cứu chuộc là một Vương quốc. Chỉ theo nghĩa này: những người được cứu chuộc là một Vương quốc vì họ sẽ trị vì trên đất. Vương quốc của Đức Chúa Trời trong câu này là chính sự cai trị của Đức Chúa Trời, một sự cai trị được chia sẻ với những người đầu phục chính mình cho Tin lành về nước Đức Chúa Trời.
Khải huyền 1:6, “Đấng yêu thương chúng ta, đã lấy huyết mình rửa sạch tội lỗi chúng ta, và làm cho chúng ta nên nước Ngài, nên thầy tế lễ của Đức Chúa Trời là Cha Ngài.” Hội thánh vừa là chức tư tế vừa là Vương quốc. Những người được cứu chuộc chia sẻ đặc quyền của Thầy tế lễ thượng phẩm vĩ đại của họ là bước vào nơi chí thánh và thờ phượng Đức Chúa Trời. Họ là các thầy tế lễ. Hội thánh cũng chia sẻ đặc quyền của Chúa và Vua của họ. Họ được trao quyền cai trị cùng với Chúa Giê-su. Họ là một Vương quốc, một quốc gia của các vị vua.
“Vương quốc của Chúa tạo ra Hội thánh và hoạt động trên thế giới thông qua Hội thánh. Do đó, con người không thể xây dựng Vương quốc nhưng họ có thể rao giảng và công bố về nó; họ có thể tiếp nhận hoặc từ chối nó. Vương quốc của Chúa trong Cựu Ước được thể hiện ở Y-sơ-ra-ên hiện đang hoạt động trên thế giới thông qua Hội thánh.”4
Do đó, chỉ có một dân của Chúa. Điều này không có nghĩa là các thánh đồ Cựu Ước thuộc về Hội thánh và chúng ta phải nói về Hội thánh trong Cựu Ước. Công vụ 7:38 thực sự có nói đến, “trong dân hội tại nơi đồng vắng, đã ở với thiên sứ, là đấng phán cùng người trên núi Si-na-i, và với tổ phụ chúng ta, người lại nhận lấy những lời sự sống đặng trao lại cho các ngươi.” Nhưng cụm từ “dân hội tại nơi đồng vắng” ở đây không mang hàm ý là hội thánh như trong Tân Ước mà ám chỉ “hội chúng” trong đồng vắng. Hội thánh nói đúng ra đã có ngày sinh nhật của mình vào Lễ Ngũ Tuần, vì Hội thánh bao gồm tất cả những người đã được báp têm bởi một Thánh Linh để trở thành một thân thể (1 Cô-rinh-tô 12:13), và công việc báp têm của Thánh Linh này bắt đầu vào ngày Lễ Ngũ Tuần.
PHAO-LÔ LÝ GIẢI VỀ CÂY Ô-LI-VE TRONG RÔ-MA 11
Khi chúng ta nói về Y-sơ-ra-ên và Hội thánh, chúng ta phải xem luận giải của sứ đồ Phao-lô về chủ đề cây ô-li-ve trong Rô-ma 11. Chỉ có một cây ô-li-ve đó là dân sự của Đức Chúa Trời. Trong Cựu Ước, các nhánh của cây là dân Y-sơ-ra-ên. Tuy nhiên, vì sự vô tín, một số nhánh tự nhiên đã bị bẻ gãy và không còn thuộc về cây nữa (câu 16). Chúng ta biết từ phần Kinh thánh này rằng không phải tất cả các nhánh đều bị bẻ gãy, vì “có một số còn sót lại, được chọn bởi ân điển”. Một số người Do Thái đã chấp nhận Đấng Mê-si và sứ điệp của Ngài về Phúc âm của Vương quốc. Chúng ta phải nhớ rằng Hội thánh đầu tiên bao gồm những người Do Thái tin Chúa; nhưng họ đến với Hội thánh không phải vì họ là người Do Thái mà vì họ là những người tin Chúa.
Khi những nhánh tự nhiên này bị bẻ gãy, những nhánh khác được lấy từ một cây ô-li-ve hoang và trái với bản chất được ghép vào cây ô-li-ve (câu 17, 24). Điều này ám chỉ đến những người ngoại đã tiếp nhận Phúc âm của Vương quốc. “Nước Đức Chúa Trời sẽ cất khỏi các ngươi, và cho một dân khác là dân sẽ có kết quả của nước đó” (Ma-thi-ơ 21: 43). Các nhánh tự nhiên bị bẻ gãy đã bị chặt khỏi cây vì sự vô tín; và các nhánh hoang dã được ghép vào vì đức tin của họ (câu 20). Toàn bộ quy trình này là “trái với tự nhiên”; tức là nó không phải là điều mà người ta mong đợi khi đọc Cựu Ước. Theo quan điểm của Cựu Ước, người ta sẽ không bao giờ biết rằng dân sự của Đức Chúa Trời bao gồm phần lớn là Dân Ngoại và rằng phần lớn dân tộc Do Thái sẽ bị bẻ gãy. Bản chất hỗn hợp này của Hội thánh thực sự là một điều bí ẩn, một sự tiết lộ sâu hơn về mục đích cứu chuộc của Đức Chúa Trời mà chưa được tiết lộ cho các tiên tri thời Cựu Ước (Ê-phê-sô 3:3).
Trong thời Cựu Ước, dân sự của Đức Chúa Trời là con cái của Y-sơ-ra-ên. Dân ngoại chỉ bước vào các phước lành của dân sự Đức Chúa Trời khi họ chia sẻ các điều khoản của giao ước với Y-sơ-ra-ên. Trong sự bày tỏ của Tân Ước, các nhánh tự nhiên, Y-sơ-ra-ên, đã bị bẻ gãy phần lớn khỏi cây vì sự vô tín và các nhánh hoang dã từ dân ngoại đã được ghép vào, thông qua đức tin. Nhưng chỉ có một cây, một dân của Đức Chúa Trời, trước hết gồm người Y-sơ-ra-ên tiếp nhận Chúa Giê-su là Đấng Mê-si và sau đó là những người ngoại bang tin đạo. Chúng ta không thể nghĩ đến hai dân tộc khác nhau mà qua đó Đức Chúa Trời thực hiện hai mục đích cứu chuộc khác nhau.
Tuy nhiên, tình trạng hiện tại của cây ô-li-ve không phải là công việc cuối cùng của Đức Chúa Trời đối với Y-sơ-ra-ên. Phao-lô viết, “Về phần họ, nếu không ghì mài trong sự chẳng tin, thì cũng sẽ được tháp; vì Đức Chúa Trời có quyền lại tháp họ vào. Nếu chính ngươi đã bị cắt khỏi cây ô-li-ve hoang thuận tánh mình, mà được tháp vào cây ô-li-ve tốt nghịch tánh, thì huống chi những kẻ ấy là nhánh nguyên sẽ được tháp vào chính cây ô-li-ve mình! Vả, hỡi anh em, tôi không muốn anh em chẳng biết sự mầu nhiệm nầy, e anh em khoe mình khôn ngoan chăng: ấy là một phần dân Y-sơ-ra-ên đã sa vào sự cứng lòng, cho đến chừng nào số dân ngoại nhập vào được đầy đủ; vậy thì cả dân Y-sơ-ra-ên sẽ được cứu” (Rô-ma 11:23-26).
Hình dạng cuối cùng của cây ô-li-ve sẽ không phải là cây có nhiều nhánh hoang dã, tức là dân ngoại. Y-sơ-ra-ên – những nhánh tự nhiên đã bị bẻ gãy vì vô tín vẫn chưa tin và được ghép lại vào cây ô-li-ve. Đây là một “huyền nhiệm” khác, một mục đích cứu chuộc khác của Đức Chúa Trời mà không được tiết lộ cho các tiên tri nhưng giờ đây đã được tiết lộ cho các sứ đồ. Sự cứng lòng của dân Y-sơ-ra-ên và việc họ bị dân sự của Đức Chúa Trời từ chối chỉ là một phần và tạm thời; nó sẽ kéo dài cho đến khi dân ngoại gia nhập vào đầy đủ. Đức Chúa Trời có mục đích mang sự cứu rỗi cho dân ngoại và Ngài biết trước sự vô tín của Y-sơ-ra-ên. Nhưng khi mục đích của Ngài với các nhánh hoang dã đã hoàn thành, Ngài sẽ quay lại với các nhánh tự nhiên; tấm màn che mắt Y-sơ-ra-ên sẽ được cất khỏi (2 Cô-rinh-tô 3:16) và họ sẽ tin và được ghép lại vào dân sự của Đức Chúa Trời. Như vậy “toàn thể Y-sơ-ra-ên sẽ được cứu” (Rô-ma 11: 26).
TOÀN THỂ DÂN Y-SƠ-RA-ÊN SẼ ĐƯỢC CỨU
Hoàn toàn không thể hiểu “toàn thể Y-sơ-ra-ên” ám chỉ đến Hội thánh dựa trên bối cảnh và diễn biến suy nghĩ của Phao-lô trong đoạn Kinh văn này. Chắc chắn, có một ý nghĩa rất thực tế trong đó Hội thánh là Y-sơ-ra-ên, con cháu của Áp-ra-ham, chịu phép phép cắt bì thật (Ga-la-ti 3:7; Rô-ma 2:28; 4:1, 12, 16). Vậy thì, điều này không có nghĩa là Đức Chúa Trời đã mãi mãi từ bỏ Y-sơ-ra-ên. Phao-lô phủ nhận điều này một cách dứt khoát. Trước hết, có một phần còn sót lại về mặt thuộc linh – những nhánh tự nhiên không bị bẻ gãy vì chúng đã tiếp nhận Đấng Christ (Rô-ma 11:1-6). Nhưng thứ hai, sẽ có một số người tiếp nhận Chúa Giê-su là Đấng Cứu rỗi từ phía Y-sơ-ra-ên. Phao-lô nói rằng “toàn thể Y-sơ-ra-ên”, tức là Y-sơ-ra-ên nói chung sẽ được cứu.
Sự cứu rỗi tương lai của Y-sơ-ra-ên này được phản ánh trong một vài câu nói của Chúa Giê-su Khi Ngài khóc thương Giê-ru-sa-lem không lâu trước khi chết, Ngài đã kêu lên:
“Hỡi Giê-ru-sa-lem, Giê-ru-sa-lem, ngươi giết các đấng tiên tri và ném đá những kẻ chịu sai đến cùng ngươi, bao nhiêu lần ta muốn nhóm họp các con ngươi như gà mái túc con mình lại ấp trong cánh, mà các ngươi chẳng khứng! Nầy, nhà các ngươi sẽ bỏ hoang! Vì, ta bảo, các ngươi sẽ không thấy ta nữa, cho đến lúc các ngươi sẽ nói rằng: Phước cho Đấng nhân danh Chúa mà đến!” (Ma-thi-ơ 23:37-39).
Giê-ru-sa-lem, biểu tượng của Y-sơ-ra-ên, đã từ chối các tiên tri mà Đức Chúa Trời đã sai đến, cho đến khi cuối cùng, Đức Chúa Trời đã sai Con Ngài đến. Chúa Giê-su mong muốn quy tụ Y-sơ-ra-ên vào trong các phước lành của Vương quốc Đức Chúa Trời nhưng Y-sơ-ra-ên không nghe; Con Ngài đã bị từ chối. Do đó, sự phán xét giáng xuống Y-sơ-ra-ên và Thành thánh Giê-ru-sa-lem sẽ bị phá hủy. Sự phán xét của Vương quốc Đức Chúa Trời thường được thể hiện trong lịch sử. Tuy nhiên, sự hoang tàn của Giê-ru-sa-lem này đã thành hiện thực vào năm 70 sau Công nguyên khi đền thờ bị phá hủy và thành phố bị người La Mã tàn phá. Trong tương lai, Y-sơ-ra-ên sẽ nhận ra Đấng Christ là Đấng Mê-si của mình và nói rằng: “Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến.”
Một lần nữa, trong lời tường thuật của Lu-ca về bài giảng trên Núi, dự đoán cả sự hủy diệt lịch sử của Giê-ru-sa-lem và ngày tận thế, chúng ta đọc rằng Chúa Giê-su đã nói về thành thánh, “Giê-ru-sa-lem sẽ bị dân ngoại giày đạp, cho đến khi thời kỳ của dân ngoại được trọn” (Lu-ca 21: 24). Sự phán xét của Chúa sẽ giáng xuống Giê-ru-sa-lem và dân tộc Do Thái cho đến khi “thời kỳ của dân ngoại”, tức là sự viếng thăm của Chúa đối với dân ngoại được hoàn thành. Khi mục đích của Chúa đối với dân ngoại được hoàn thành, vì vậy câu này ngụ ý: Giê-ru-sa-lem sẽ không còn bị giày đạp nữa. Sẽ có sự phục hồi của Y-sơ-ra-ên; Nhìn chung thì “toàn thể Y-sơ-ra-ên sẽ được cứu.”
CHỈ CÓ MỘT VƯƠNG QUỐC DUY NHẤT
Rất thường xuyên trong quá trình nghiên cứu mối quan hệ giữa Vương quốc của Đức Chúa Trời, Hội thánh và Y-sơ-ra-ên, chúng ta quên mất sự thật mà đối với chúng ta là quan trọng nhất: Vương quốc của Đức Chúa Trời cuối cùng sẽ mang lại sự cứu rỗi cho Y-sơ-ra-ên và sẽ đưa Y-sơ-ra-ên vào Vương quốc đã mang đến sự cứu rỗi cho chúng ta. Vương quốc của Đức Chúa Trời đang hoạt động trên thế giới thông qua các môn đồ của Chúa Giê-su Christ, những người đã tiếp nhận Vương quốc và tạo nên một dân tộc mới cho Đức Chúa Trời, tức là Hội thánh. Vương quốc của Chúa đã chinh phục vương quốc của Sa-tan trong nhân loại, và sứ mệnh của Chúa Giê-su là giải thoát con người khỏi sự ràng buộc của vương quốc tối tăm; và cuộc xung đột giữa Vương quốc của Chúa và các thế lực bóng tối vẫn tiếp diễn khi hội thánh mang tin lành về Vương quốc của Chúa đến các quốc gia trên trái đất.Về một phương diện khác, trong khi Vương quốc của Chúa sẽ không được hiện thực hóa như một trạng thái phước lành hoàn hảo cho đến khi Chúa Giê-su tái lâm. Vương quốc Đức Chúa Trời đang hoạt động trên thế giới và đang tham gia vào cuộc đấu tranh sinh tử với kẻ ác. Hội thánh là công cụ của cuộc đấu tranh này. Do đó, xung đột với thế gian phải luôn là một yếu tố thiết yếu trong cuộc sống của hội thánh miễn là thời đại này còn tồn tại. Lịch sử loài người sẽ nhận ra một phần nào đó về cuộc sống và phước lành của Vương quốc vì một cộng đồng mới đã được hình thành trong xã hội loài người.
Kết luận
Hội thánh là cộng đồng của Vương quốc và sẽ thúc đẩy cuộc đấu tranh chống lại cái ác của Sa-tan trên thế giới. Những công dân của Vương quốc không thể không gây ảnh hưởng trong lịch sử loài người vì họ là ánh sáng của thế gian và muối của đất (Ma-thi-ơ 5:13-16). Là ánh sáng, nó phải chiếu sáng; và chừng nào muối còn là muối, nó phải là chất bảo tồn cho một thế giới đang băng hoại. Do đó, sứ mệnh của Hội thánh không chỉ là sử dụng chìa khóa của Vương quốc để mở cửa cho cả người Do Thái và người ngoại cánh cửa vào cuộc sống vĩnh cửu là món quà của Vương quốc Chúa; mà còn là công cụ của sự cai trị năng động của Chúa trên thế giới để chống lại cái ác và những kẻ phản bội như Sa-tan dưới mọi hình thức biểu hiện của chúng.
Khi dân sự của Chúa không còn nhìn thấy lẽ thật này, chúng ta đang phản bội bản chất của mình là Hội thánh. Chúng ta là tâm điểm của cuộc xung đột giữa Vương quốc của Chúa và điều ác của Sa-tan. Về cơ bản, đây là cuộc xung đột trong thế giới tâm linh. Tuy nhiên những thế lực tâm linh của Sa-tan và Vương quốc của Chúa thể hiện trong các lĩnh vực ứng xử và mối quan hệ của con người. Do đó, chúng ta phải thúc đẩy cuộc chiến chống lại các thế lực bóng tối ở bất cứ nơi nào chúng ta tìm thấy chúng cho đến khi bình minh và ánh sáng của sự hiểu biết về Chúa lan tỏa khắp thế giới trước khi Chúa Giê-su tái lâm.
THƯ MỤC THAM KHẢO
1. https://vietchurch.net/tu-dien-than-hoc. Ngày truy cập tháng 3/2025
2. George Eldon Land (1959). The Gospel of the Kingdom.WM. B. EERDMANS Publishing Co.
3. David Hocking. Thần học thay thế. Huongdionline.com. Ngày truy cập 4 tháng 4/2025.
4. George Eldon Land (1959). The Gospel of the Kingdom.WM. B. EERDMANS Publishing Co.
The post Phúc Âm Vương Quốc Và Các Mối Liên Hệ appeared first on Hướng Đi Ministries.