Năm Luận Điểm Của Calvin Dưới Ánh Sáng Kinh Thánh
Tác giả: Duane Edward Spencer
Nội dung
Lời nói đầu của Luder G. Whitlock, Jr.
Năm luận điểm của Arminianism
Sự tương phản giữa Arminianism và Calvinism
Ý Muốn của Đức Chúa Trời
I Hoàn Toàn Sa Ngã
II Sự Tuyển Chọn Vô Điều Kiện
III Sự Chuộc Tội Có Giới Hạn
IV Ân Điển Không Thể Cưỡng Lại
V Sự Kiên Trì Của Các Thánh Đồ
Kết luận
Bản Tuyên Xưng Đức Tin của Westminster (1648)
Bối cảnh lịch sử
Lời tựa
Tại sao chúng ta quan tâm đến Năm Luận Điểm của Thuyết Calvin, một giáo lý quan trọng gây tranh cãi ở thế kỷ 17? Bởi vì vấn đề này có ảnh hưởng vào thời đó và kéo dài đến hôm nay: quyền tự do lựa chọn của cá nhân liên quan như thế nào đến quyền tối hậu của Chúa khi nó được thực hiện trong kế hoạch đời đời của Ngài và kinh nghiệm cứu rỗi của mỗi chúng ta.
Mặc dù năm luận điểm trên đây, được gọi là TULIP, thường được liên kết với nhà thần học Cải cách vĩ đại John Calvin, nhưng chúng không bắt nguồn từ ông. Thay vào đó, những người theo Jacob Arminius, một nhà thần học người Hà Lan, đã bày tỏ sự không đồng tình của họ với quan điểm cùa Calvin đang thịnh hành ở Hà Lan bằng một cuộc phản đối chính thức được gọi là Remonstrance. Họ đã trình bày sự phản đối này trước Nghị viện của Hà Lan vào năm 1610. Tại một kỳ họp hội đồng được tổ chức ở Dort vào năm 1618, năm luận điểm phản đối chính của những người phản đối đã được thảo luận kỹ lưỡng và kiên quyết bác bỏ từng điểm một của TULIP (Năm điểm của thuyết Calvin.) Trong quyển sách này, hai quan điểm đối lập trên đây được giải thích, phân tích và đánh giá một cách ngắn gọn dưới ánh sáng của Kinh Thánh.
Cũng cần lưu ý rằng cuộc xung đột giữa Thánh Augustine và Pelagius trong thế kỷ thứ năm khi Pelagius nhấn mạnh vào lòng tốt cơ bản của con người, khả năng tuân theo và tin tưởng của cá nhân, đã đánh dấu những điểm tương đồng với Remonstrance.
Bởi vì năm điểm TULIP là gây ra một phản ứng từ Remonstrance, chúng cũng chỉ có phạm vi hạn chế, nhắc nhở chúng ta rằng ngay cả một hàng phòng thủ tốt cũng không nhất thiết phải mang lại khả năng tấn công tốt nhất. Thần học cải chánh hấp dẫn ở mức độ sâu sắc của nó, không được giới hạn trong khuôn khổ này. John Calvin đã chọn một cách tiếp cận khác để giải thích thông điệp Kinh Thánh như có thể được nhìn thấy trong các tác phẩm ở Viện Tôn giáo Cơ đốc và các sách khác của ông.
Mặt khác, năm điểm TULIP phù hợp với những đặc điểm nổi bật của thần học Cải chánh, chẳng hạn như sự vĩ đại của Chúa – một sự nhấn mạnh đáng hoan nghênh vì quyền tối thượng của Chúa không còn được ủng hộ ở Hoa Kỳ. Bắt đầu từ đầu thế kỷ 19, xu hướng tự do cá nhân và chủ nghĩa cá nhân lan rộng đã góp phần dân chủ hóa Cơ đốc giáo Hoa Kỳ, làm suy giảm đáng kể quyền năng tối hậu của Đức Chúa Trời trong nhận thức của nhiều Cơ đốc nhân. Ảnh hưởng dân túy này đã thúc đẩy tình cảm chống thần học Cải chánh.
Gần đây, sự quan tâm trở lại đối với thần học Cải chánh, được kích thích một phần bởi sự suy thoái nhanh chóng của văn hóa Mỹ và nhận thức dần dần trong giới truyền giáo rằng thế giới quan của thần học cải chánh đưa ra phản ứng phù hợp và thuyết phục nhất đối với tình trạng thế tục hóa đáng báo động hiện nay.
Cuốn sách này chứng minh rõ ràng và mạnh mẽ về từng điểm trong số năm điểm đang được đề cập, giúp chúng ta xác định chắc chắn sự dạy dỗ của Kinh Thánh về từng điểm. Khi làm như vậy, một lẽ thật trở nên rõ ràng: Chúa cai trị trên tất cả. Bởi vì Đức Chúa Trời toàn năng trị vì, chúng ta nên để Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời, thừa nhận và vui mừng trong tình yêu và ân điển tối cao của Ngài. Chắc chắn rằng sự cứu rỗi của chúng ta là bởi ân điển, tất cả là ân điển – không phải công đức từ con người để chúng ta không có chỗ nào khoe khoang (Ê-phê-sô 2:8-9).
Cuối cùng, chúng ta có thể vui mừng với lẽ thật rằng nếu Đức Chúa Trời ủng hộ chúng ta thì việc ai chống lại không thành vấn đề vì không ai có thể ngăn cản được tay Ngài (Rô-ma 8:31). Khi các vua và quan trưởng của thế gian này chống đối Ngài, Ngài cười nhạo (Thi thiên 2). Trong ân điển đầy đủ của Đức Chúa Trời tối cao, chúng ta tìm thấy sự giúp đỡ chắc chắn, niềm hy vọng bất diệt và sự an ninh vĩnh cửu.
Nếu điều này hấp dẫn bạn – hãy đọc tiếp những trang sau.
Lời nói đầu
Một trong những dấu hiệu thú vị nhất của thời đại chúng ta là sự quan tâm ngày càng tăng đối với việc nghiên cứu Lời Đức Chúa Trời thay vì thần học Cải chánh. Thay vì những tác phẩm văn học tầm thường của tổ tiên họ, nhiều người trẻ tuổi đang đọc những cuốn sách như Sự Trói Buộc Của Ý Chí của Martin Luther và Viện Nghiên Cứu của John Calvin. Khi họ đọc và so sánh thần học của những người Cải chánh Tin lành với Kinh Thánh của họ, họ bắt đầu nhận ra rằng phần lớn thần học của truyền giáo đương đại đã bỏ qua ân điển và nhấn mạnh đến công việc của xác thịt. Nếu họ đi xa hơn để nghiên cứu lịch sử thần học, họ cũng biết rằng học thuyết của hầu hết các nhà thờ truyền giáo ngày nay là thần học nhân văn của Erasmus ở Rome. Sau đó, họ bắt đầu thấy lý do tại sao những người theo trào lưu chính thống và những người theo chủ nghĩa tự do, các hệ phái Tin lành, Công giáo và Ngũ tuần có thể sát cánh bên nhau trong các cuộc phục hưng và thập tự chinh lớn của thế kỷ 20. Điểm chung của họ là học thuyết cao quý về con người được Erasmus tán thành, được Arminius định nghĩa rõ ràng, được Wesley phổ biến và được nhiều nhà tâm lý học tôn giáo của thời đại chúng ta đánh bóng lần cuối.
Tôi thấy lạ là ngày nay có nhiều người khăng khăng rằng họ tin vào sự cứu rỗi bởi ân điển, tuy nhiên họ nhấn mạnh rằng con người có quyền “quyết định thay cho Đấng Christ.” Họ lập luận rằng Chúa yêu thương tất cả mọi người, bình đẳng và giống nhau, nhưng họ chắc chắn rằng Ngài sẽ tống một số người xuống địa ngục. Họ khẳng định rằng Kinh Thánh dạy rằng Đấng Tạo Hóa của vạn vật chắc chắn là Đấng toàn năng, nhưng họ cũng khá tự tin rằng con người hữu hạn hoàn toàn có khả năng cản trở ý muốn của Đức Chúa Trời. Trong hầu hết mọi trường hợp, vấn đề nằm ở chỗ những người này không biết các lẽ thật căn bản trong Kinh Thánh. Họ không nghe gì từ bục giảng ngoài những bài giảng về “kế hoạch cứu rỗi”. Nếu họ được yêu cầu giải thích ý nghĩa của những giáo lý như sự cứu chuộc, sự hòa giải, sự tha thứ và sự chuộc tội, thì họ sẽ lẩm bẩm những điều nhỏ nhặt khác mà phớt lờ những lẽ thật nền tảng. Tại sao? Bởi vì họ chưa bao giờ được giảng dạy cách đúng đắn, cũng như có năng lực thuộc linh cần thiết để khám phá cho chính mình những gì Kinh Thánh dạy về công việc của Đấng Christ. Có một điểm chung giữa họ: tin tưởng rằng con người có thể sử dụng ý chí tích cực của chính mình để tiếp nhận Đấng Christ và được cứu.
Nhiều tín hữu Baptist nghĩ rằng họ cần chống lại những người theo chủ nghĩa Calvin. Họ không nhận thức được sự thật là Charles Haddon Spurgeon một trong những nhà truyền giáo vĩ đại nhất của họ là một người theo học thuyết Calvin năm điểm vững chắc. Nhà truyền giáo nổi tiếng này nói:
“Chân lý mà Calvin đã giảng, Augustine đã giảng, Paul đã giảng, là chân lý mà ngày nay tôi phải rao giảng, nếu không sẽ là dối trá với lương tâm và Đức Chúa Trời của tôi. Phúc âm của John Knox là phúc âm của tôi. Phúc âm này tạo ra cơn phấn hưng tại Scotland cũng phải tái diễn ở nước Anh.”
Trong suốt lịch sử, nhiều nhà truyền giáo vĩ đại, những nhà truyền giáo và những nhà thần học vững vàng đã tin vào những học thuyết quý giá về ân điển được gọi là thuyết Calvin (TULIP). Chúng ta có thể nói đến:
-William Carey đứng vững trong thuyết tiền định nhưng không ngần ngại kêu gọi mọi người ăn năn tội lỗi của họ và tiếp nhận Đấng Christ. Quyền tể trị của Đức Chúa Trời và trách nhiệm của con người trong việc tiếp nhận Lời Đức Chúa Trời hoàn toàn không phải là những học thuyết đối kháng. Một khi những lời dạy cơ bản của thuyết Calvin được hiểu một cách chính xác, tấm lòng chúng ta sẽ trở nên ấm áp và nhu cầu cấp bách chia sẻ phúc âm với người khác trở nên khẩn cấp.
-Burns of China, M’Cheyne, Whitfield, Brainerd, Bonar, Luther, Knox, Latimer, Tyndale, Rutherford, Bunyan, Goodwin, Owen, Watson, Watts, Newton, Hodge, Warfield và Pink chỉ là một vài trong số những người khổng lồ trên bục giảng mà sứ điệp của họ tỏa sáng với học thuyết về ân điển tối cao. Tất cả họ đều lên tiếng nhiệt thành amen với những lời này của Spurgeon:
“Tôi thích tuyên bố thuyết của Calvin là chắc chắn và chân thực, là lẽ thật được mặc khải từ Đức Chúa Trời cũng như được bày tỏ trong Chúa Giê-su Christ.”
Năm luận điểm của Arminianism
Jacob Hermann, một nhà thần học người Hà Lan (1560 – 1609), còn được gọi là Arminius. Mặc dù được nuôi dưỡng trong truyền thống Cải chánh, Arminius nghiêng về học thuyết nhân văn của Erasmus, vì ông nghi ngờ nghiêm trọng về ân điển tối cao khi nó được những người Cải chánh rao giảng. Các đệ tử của ông, được gọi là Arminians và Remonstrant, đã phát triển thêm các lời dạy của ông. Vài năm sau khi ông qua đời, họ đã xây dựng các học thuyết của ông thành năm điểm chính được gọi là Năm điểm của thuyết Arminian.
Vì các nhà thờ của Hà Lan, giống như các nhà thờ Tin Lành lớn khác của châu Âu, đã tiếp nhận Bản tín điều cải chánh của Belgic và bản tuyên xưng đức tin Heidelberg, nên những người Arminians đã quyết định trình bày trước Nghị viện Hà Lan một lời phản đối. Sự phản đối được viết cẩn thận đệ trình lên quốc hội Hà Lan vào năm 1618. Một hội đồng cấp quốc gia của Giáo hội đã được triệu tập tại Dort để xem xét những lời dạy của Arminius dưới ánh sáng Kinh Thánh. Sau 154 phiên họp nghiêm túc, kéo dài bảy tháng, Năm điểm của Arminianism được phát hiện là trái với Kinh Thánh, và bị tuyên bố là dị giáo. Đồng thời, các nhà thần học lúc đó đã tái khẳng định giáo lý do những người Tin Lành cải chánh nắm giữ là phù hợp với Kinh Thánh và đưa ra bản công bố được gọi là Năm Điểm Của Thuyết Calvin (để vinh danh John Calvin, nhà thần học vĩ đại người Pháp).
Trong nhiều năm, các nhà nghiên cứu đã hình thành một chữ viết tắt tạo thành từ TULIP (tên của cuốn sách nhỏ này) để dễ dàng ghi nhớ 5 luận điểm của Calvin. Năm điểm đó là:
T là viết tắt của Total Depravity – sự sa ngã hoàn toàn;
U cho Unconditional Election – sự chọn lựa vô điều kiện;
L cho Limited Atonement – sự chuộc tội có giới hạn,
I cho Irresistible Grace – ân điển bất khả kháng (không thể chống lại) được.
và P cho Perseverance of the saints – sự kiên trì của các thánh đồ.
Chúng ta sẽ xem qua một số lời giải thích của các nhà thần học cải chánh về năm điểm TULIP này, nhưng trước tiên chúng ta đọc bản tóm tắt về Năm Điểm Của Thuyết Arminian.
I. Ý CHÍ TỰ DO.
Điểm đầu tiên của Arminianism là con người sở hữu ý chí tự do. Những người cải cách thừa nhận rằng con người có ý chí, nhưng họ đồng ý với luận điểm của Martin Luther trong cuốn sách Sự Trói Buộc Của Ý Chí rằng con người không thoát khỏi sự nô lệ của Satan. Arminian tin rằng sự sa ngã của con người không phải là hoàn toàn đánh mất khả năng quay trở lại với Chúa; họ cho rằng con người vẫn còn đủ tốt để sẵn sàng tiếp nhận Đấng Christ và nhận sự cứu rỗi.
II. SỰ TUYỂN CHỌN CÓ ĐIỀU KIỆN.
Arminius dạy rằng việc cứu rỗi dựa trên sự biết trước của Đức Chúa Trời về việc ai sẽ tin. Nói cách khác, hành động đức tin của con người là điều kiện để con người được chọn để bước vào sự sống đời đời, vì Đức Chúa Trời đã thấy trước con người thực hiện “ý chí tự do” của mình với lòng thành tâm tích cực đối với Đấng Christ.
III. SỰ CHUỘC TỘI PHỔ QUÁT.
Họ tin rằng Đức Chúa Trời yêu thương mọi người, rằng Đấng Christ đã chết cho mọi người và rằng Đức Chúa Trời không muốn để bất kỳ ai phải chết, Arminius và những người theo ông cho rằng sự cứu chuộc (đồng nghĩa với sự chuộc tội) là mang tính phổ quát. Nói cách khác, sự chết của Đấng Christ là nền tảng để Đức Chúa Trời cứu rỗi tất cả mọi người. Tuy nhiên, mỗi người phải vận dụng ý chí tự do của mình để tiếp nhận Đấng Christ.
IV. CẢN TRỞ ÂN ĐIỂN.
Người Arminian còn tin rằng vì Đức Chúa Trời muốn tất cả mọi người được cứu, nên Ngài đã sai Đức Thánh Linh đến để thu hút mọi người đến với Đấng Christ. Tuy nhiên, vì con người có “ý chí tự do” tuyệt đối nên con người có thể chống lại ý muốn của Đức Chúa Trời (thứ tự của người Arminian là con người thực hiện ý chí của mình trước, sau đó mới được tái sinh). Mặc dù Arminian nói họ tin rằng Chúa là toàn năng, nhưng nhấn mạnh rằng ý muốn cứu rỗi tất cả mọi người của Chúa có thể bị cản trở bởi ý chí hữu hạn của con người.
V. RƠI KHỎI ÂN ĐIỂN.
Điểm thứ năm của thuyết Arminian là hệ quả hiển nhiên từ các luận điểm đã đề cập. Nếu con người không thể được Đức Chúa Trời cứu trừ khi ý muốn của con người là được cứu, thì con người không thể tiếp tục trong sự cứu rỗi trừ khi họ tiếp tục muốn được cứu. Con người có thể rơi khỏi ân điển của Chúa, khi họ lựa chọn như vậy.
Sự tương phản giữa Arminism Và Calvinism
Khi đối chiếu năm điểm của Arminism với Năm điểm của Calvinism, chúng ta thấy chúng hoàn toàn trái ngược. Để chúng ta có thể nhìn thấy rõ ràng “các chiến tuyến” được vạch ra từ những bộ óc thông minh của cả hai phe, chúng ta hãy bắt đầu bằng cách so sánh ngắn gọn giữa hai quan điểm trên từng điểm một.
ĐIỂM MỘT. Người Arminian nói rằng ý chí của con người là “tự do” để lựa chọn Lời Chúa hoặc lời của Satan. Do đó, sự cứu rỗi tùy thuộc vào công việc đức tin của con người.
Người Calvinism trả lời rằng con người không được tái sinh đang ở trong vòng nô lệ tuyệt đối với Sa-tan và hoàn toàn không có khả năng tự do thực hiện ý muốn của mình để tin cậy vào Đấng Christ. Do đó, sự cứu rỗi tùy thuộc vào công việc của Đức Chúa Trời, Đấng phải ban cho con người sự sống trước khi họ có thể tiếp nhận Đấng Christ.
ĐIỂM HAI. Arminian cho rằng sự tuyển chọn là có điều kiện, trong khi những người Calvinist tuyên bố là vô điều kiện. Người Arminian tin rằng Đức Chúa Trời đã tuyển chọn những người mà Ngài “biết trước” sẽ tin vào sự cứu rỗi, vì vậy sự biết trước dựa trên một điều kiện do con người thiết lập.
Những người Calvinism cho rằng “sự biết trước” dựa trên mục đích hoặc kế hoạch của Đức Chúa Trời, vì vậy sự tuyển chọn đó không có sự dự phần của con người. Một lần nữa, cần lưu ý rằng kết luận của mỗi bên là hệ quả tự nhiên từ học thuyết của họ.
Nếu con người thực sự có ý chí tự do và không bị ràng buộc bởi Sa-tan và tội lỗi, thì con người có thể đưa ra điều kiện để Đức Chúa Trời có thể chọn để cứu con người. Tuy nhiên, nếu con người không có ý chí tự do, nhưng thực sự đang ở trong vòng nô lệ của Sa-tan và tội lỗi, thì hy vọng duy nhất của họ là Đức Chúa Trời đã sử dụng ý chí tự do của Ngài để tuyển chọn họ bước vào sự cứu rỗi.
ĐIỂM BA. Người Arminian khẳng định rằng sự chuộc tội (có nghĩa là sự cứu chuộc) là phổ quát cho tất cả mọi người. Người theo học thuyết Calvinism nhấn mạnh rằng sự cứu chuộc là đặc biệt, nghĩa là sự chuộc tội có giới hạn được Đấng Christ thực hiện cho một số người mà Ngài đã biết trước là họ sẽ tin.
– ARMINIANISM—Đấng Christ không chết để cứu một ai cụ thể, mà chỉ cứu những ai sử dụng ý chí tự do của mình và chấp nhận sự ban cho của Ngài về sự sống đời đời. Do đó, cái chết của Ngài là có một phần thất bại vì những người có ý chí tiêu cực sẽ xuống địa ngục.
– CALVINISM—Đấng Christ chết để cứu những con người đặc biệt đã được Đức Chúa Cha ban cho Ngài trong quá khứ vĩnh cửu. Do đó, cái chết của Ngài đã thành công 100%, ở chỗ tất cả những ai Ngài chết vì họ, họ sẽ được cứu; và tất cả những ai Ngài không chết vì họ, họ sẽ nhận được “phán xét công lý” từ Đức Chúa Trời có nghĩa là họ bị ném vào địa ngục.
ĐIỂM BỐN. Arminian tiếp tục bằng cách tuyên bố rằng mặc dù Chúa Thánh Linh tìm cách lôi kéo tất cả mọi người đến với Chúa Giê-su Christ (vì Chúa yêu tất cả nhân loại và muốn cứu tất cả), tuy nhiên, vì ý muốn của Chúa bị ràng buộc bởi ý muốn của con người, Thánh Linh có thể bị ý muốn của con người cản trở. Đức Thánh Linh có thể bị con người chống cự nếu họ chọn lựa làm như thế.
Vì chỉ con người mới có thể xác định liệu mình có được cứu hay không, nên có lý khi nói rằng Đức Chúa Trời bị con người cản trở ý muốn tuyệt đối của Ngài. Ngài bất lực trước ý muốn của con người, và để cho tạo vật có thể đi theo sự lừa dối của Sa-tan. Minh họa cho điều này là lời nói dối của Satan với Ê-va trong vườn Ê-đen, làm cho Ê-va phạm tội.
Người Calvinism trả lời rằng ân điển của Chúa không thể bị cản trở, nhưng Chúa sở hữu “ân điển không thể cưỡng lại được.” Điều này không có nghĩa là Đức Giê-hô-va nghiền nát ý chí bướng bỉnh của con người như một chiếc xe tải khổng lồ đè bẹp một chú chó con! Ân điển không thể cưỡng lại không dựa trên quyền năng của Đức Chúa Trời, mặc dù nó có thể xảy ra nếu Chúa muốn như vậy. Đúng hơn, nó dựa trên món quà sự sống được gọi là sự tái sinh. Vì tất cả những con người đã chết về phần tâm linh đều bị Sa-tan là linh của sự chết, lôi kéo một cách không thể cưỡng lại được. Và những người được Chúa ban cho sự sống thuộc linh thì tự nhiên đến với Ngài. Đây là ân điển không thể cưỡng lại được, nên Chúa của chúng ta chỉ đơn giản là ban cho những người được chọn Thần sự sống! Khi Ngài làm như vậy, đời sống thuộc linh của họ được thay đổi. Nơi mà họ đã từng “chết vì vi phạm và tội lỗi” và hướng về ma quỷ, thì giờ đây họ được “sống lại trong Chúa Giê-su Christ” và hướng về Đức Chúa Trời.
Chính tại điểm này, một sự khác biệt lớn khác giữa thần học Arminian và thần học Calvinism trở nên rõ ràng. Arminian nói rằng thứ tự của các sự kiện là: thứ nhất là công việc đức tin của con người; tiếp theo là món quà sự sống của Chúa. Người Calvinism tuyên bố rằng thứ tự của các sự kiện là: Đầu tiên, món quà sự sống của Đức Chúa Trời, sau đó mới đến đức tin cứu rỗi.
ĐIỂM NĂM. Cuối cùng, Arminian kết luận khá lô-gic rằng vì con người được cứu nhờ hành động tự do ý chí của mình khi tiếp nhận Đấng Christ, nên họ có thể bị hư mất (sau khi đã được cứu), do thay đổi mối quan hệ của họ với Đấng Christ. Một số người Arminian nói thêm rằng sau khi được cứu một người có thể đánh mất sự cứu rỗi của mình khi phạm một số tội lỗi, vì thần học của người Arminian là một “thần học dựa vào công đức” —ít nhất là ở mức độ mà con người phải thực hiện ý chí của mình để được cứu. Khả năng bị hư mất, sau khi đã từng được cứu, được những người Arminian gọi là “rơi ra khỏi ân sủng”. Họ nói thêm rằng nếu sau khi được cứu rồi bị sa ngã, một người nên tự nguyện quay trở lại với Đấng Christ một lần nữa, ăn năn tội lỗi của mình, thì người ấy có thể được cứu trở lại. Tất cả tùy thuộc vào ý chí tích cực tiếp tục của con người cho đến khi chết.
Người Calvinism trả lời khá đơn giản, vì sự cứu rỗi hoàn toàn là công việc của Chúa, và con người hoàn toàn không liên quan gì đến việc “được cứu” ngay từ đầu, rõ ràng là “giữ đức tin để được sự cứu rỗi” cũng là công việc của Đức Chúa Trời, không tùy thuộc vào bất kỳ điều tốt hay xấu nào về phía những người được chọn của Ngài. Các thánh đồ sẽ “kiên trì” vì lý do đơn giản là Đức Chúa Trời hứa điều này, đảm bảo với chúng ta rằng Ngài sẽ hoàn thành công việc mà Ngài đã bắt đầu trong chúng ta! Do đó, điểm năm của TULIP nói lên sự kiên trì/sự nhẫn nại của các thánh đồ.
Ý MUỐN CỦA CHÚA
Chúng ta hãy bắt đầu so sánh Năm điểm của thuyết Arminian và Năm điểm của thuyết Calvinism với Kinh Thánh bằng cách thiết lập quan điểm của Kinh Thánh về ý muốn của Đức Chúa Trời. Khi nói về “ý muốn” của Đức Giê-hô-va, chúng ta phải nhớ rằng đó chỉ là biểu hiện của thuộc tính toàn năng, toàn tri của Ngài. Nếu Ngài là toàn năng, như Kinh Thánh làm chứng, thì Ngài sẽ đạt được tất cả những gì Ngài muốn, và nếu Ngài là toàn tri, thì Ngài sẽ không phạm sai lầm nào trong kế hoạch ban đầu, Ngài cũng sẽ không bao giờ thấy cần phải thay đổi mục đích ban đầu của Ngài.
“Từ trước vô cùng Ngài đã thông biết những việc đó” (Công vụ 15:18).
Như Benjamin Warfield đã cẩn thận tuyên bố: “Trong sự khôn ngoan vô hạn của Chúa tể của cả vũ trụ, mỗi sự kiện đều rơi vào vị trí thích hợp của nó một cách chính xác trong kế hoạch thiêng liêng của Đức Chúa Trời, hoặc không có sự phù hợp đối với vị trí của nó trong việc thực hiện mục đích của Ngài; tuy nhiên mục đích cuối cùng vẫn sẽ là biểu lộ sự vinh hiển của Ngài. Cựu Ước, cũng như Tân Ước đạt được sự thống nhất cụ thể trong mục đích đời đời của Chúa (decree), mà tất cả những gì xảy ra chỉ là sự phát triển của các sự kiện theo dòng thời gian.”
Do đó, như chúng ta sẽ thấy, bất cứ điều gì xảy ra trong lịch sử nhân loại đều đi theo kế hoạch hoặc mục đích vĩnh cửu của Đức Chúa Trời. Nếu có điều gì xảy ra trái với ý muốn của Đức Chúa Trời, thì theo quan điểm của tạo vật hữu hạn điều đó không tốt. Lúc đó Sa-tan và con người (ít nhất là trong một số trường hợp) phải ngang hàng hoặc vượt trội hơn so với Đấng Tạo Hóa. Tuy nhiên Lời Chúa tuyên bố rằng Ngài là toàn năng và không ai có thể ngăn cản Ngài. Hãy nhớ rằng nếu ý chỉ của Đức Giê-hô-va phản ánh thuộc tính tồn tại bất biến của Ngài, thì ý chỉ đó không thể bị cản trở hay hủy bỏ. Do đó, bất cứ điều gì xảy ra trong bất kỳ phần nào của sự sáng tạo, vào bất kỳ thời điểm nào trong lịch sử, đều được Đức Chúa Trời biết từ trước. Tất cả đều nằm trong kế hoạch hay mục đích trường cửu của Ngài.
Người ta sẽ thấy rõ hơn rằng không có mâu thuẫn nào giữa những công việc quyền năng biểu lộ sự thánh khiết, sự công chính và cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời với những công việc vinh quang biểu lộ ân điển, tình yêu thương và sự tha thứ của Ngài. Dưới ánh sáng của toàn bộ Kinh Thánh, Đức Giê-hô-va luôn nhất quán khi Ngài trừng phạt một số người và tha thứ cho những người khác, cũng như khi Ngài bày tỏ sự công bình và công lý tối cao của Ngài đối với những tội nhân không ăn năn. Đồng thời tuyên bố ân điển tối cao của Ngài, sẵn lòng tha thứ cho tất cả những ai Ngài đã chọn “trong Chúa Giê-su Christ” trước khi sáng thế. Với tư cách là Chủ thể tự do duy nhất trong cõi vĩnh hằng, Đấng duy nhất không bị ảnh hưởng bởi bất kỳ tạo vật hay thế lực bên ngoài nào, Chúa tể của vũ trụ có thể tuyên bố:
“Ta muốn thương xót ai thì thương xót” (Rô-ma 9:15).
Là Đấng duy nhất trong mọi thời đại và cõi vĩnh hằng với quyền tự do tuyệt đối theo ý muốn Ngài thấy phù hợp, Đức Chúa Trời đã vạch ra một kế hoạch bao gồm cả sự lựa chọn và sự trừng phạt các đối tượng. Phao-lô nói:
“Nào những thế thôi, về phần Rê-bê-ca, khi bà ấy bởi tổ phụ chúng ta là Y-sác mà có thai đôi cũng vậy. Vì, khi hai con chưa sanh ra, chưa làm điều chi lành hay dữ hầu cho được giữ vững ý chỉ Đức Chúa Trời, là ý định sẵn bởi sự kén chọn tự do của Ngài, chẳng cứ việc làm, nhưng cứ Đấng kêu gọi thì có lời phán cho mẹ của hai con rằng: Đứa lớn sẽ làm tôi đứa nhỏ; như có chép rằng: Ta yêu Gia-cốp và ghét Ê-sau” (Rô-ma 9:10-13).
Nói cách khác, không tính đến “tốt” hay “xấu” ở hai người trên đây, Đức Chúa Trời đã tiền định Gia-cốp thành đối tượng yêu thương của Ngài và Ê-sau trở thành đối tượng cho cơn thịnh nộ của Ngài. Tại sao? Để mục đích hoặc kế hoạch thiêng liêng của Ngài, phù hợp với “sự lựa chọn” (hoặc lựa chọn những người và sự kiện đáp ứng ý muốn của Ngài) có thể đứng vững. Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh không xin lỗi vì Ngài đã quyết định để một số người người phải sống đời đời dưới cơn thịnh nộ của Ngài, ban cho họ chính xác những gì họ đáng phải nhận, trong khi Ngài cũng đã quyết định ban sự cứu rỗi cho một số người. Vì điều đó làm Ngài hài lòng. Ngài làm như vậy để Ngài có thể bày tỏ ân điển, sự thương xót, tình yêu thương và công lý của Ngài trước sự hiện diện của các thiên sứ được chọn. Đây là lý do tại sao Phao-lô viết:
“Vì Đức Chúa Trời không định cho chúng ta sự thịnh nộ, nhưng Ngài đã chỉ định chúng ta nhận được sự cứu rỗi bởi Chúa chúng ta là Đức Chúa Giê-su Christ” (1 Tê-sa-lô-ni-ca 5:9).
Vô hình trung Đấng Christ trở thành một gương xấu đối với những người chưa được tái sinh và sẽ như vậy đối với những người mà Đức Chúa Trời không chọn họ. Phi-e-rơ nói rằng Đấng Christ là hòn đá gây vấp phạm cho một số người: “họ bị vấp đá đó, vì không vâng phục Đạo, và điều ấy đã định sẵn cho họ rồi” (1 Phi-e-rơ 2:8).
Ở đây, Phi-e-rơ sử dụng cùng một từ Hy Lạp “định sẵn” như Phao-lô sử dụng khi nói ngược lại, chúng ta không được chỉ định để nhận lấy cơn thịnh nộ trong 1 Tê-sa-lô-ni-ca 5:9.
Khi sứ đồ Phao-lô muốn cho thấy cách Đức Chúa Trời đã ấn định một số người để được cứu rỗi, hoàn toàn không có bất kỳ phẩm chất tốt nào từ phía họ, trong khi Ngài lại chỉ định những người khác để bị kết án, ông nói:
“Trong Kinh Thánh cũng có phán cùng Pha-ra-ôn rằng: Nầy là cớ vì sao ta đã dấy ngươi lên, ấy là để tỏ quyền phép ta ra trong ngươi, hầu cho danh ta được truyền ra khắp đất” (Rô-ma 9:17).
Nói cách khác, khi Đức Chúa Trời cần một người nào đó cho kế hoạch xuất hành của tuyển dân, người đó sẽ chống lại lời Ngài và đuổi theo Y-sơ-ra-ên để giết dân sự của Đức Chúa Trời, thì Ngài đã chọn Pha-ra-ôn. Trong số hàng triệu tinh trùng có thể kết hợp với trứng đang chờ đợi trong người mẹ của Pha-ra-ôn, Đức Chúa Trời đã quyết định một bào thai được hình thành và trở thành vua của Ai Cập. Cá nhân cụ thể đó hoàn toàn phù hợp với nhiệm vụ thực hiện những công việc một cách thích đáng với mục đích của Đức Chúa Trời trong thời điểm đặc biệt của lịch sử. Đức Giê-hô-va hoàn thành kế hoạch của Ngài. Ngài không ép Pha-ra-ôn hành động trái với bản chất của ông. Pha-ra-ôn chỉ đơn giản là phản ứng tích cực với “vua cầm quyền chốn không trung” (theo Ê-phê-sô 2:2) và đồng thời, hoàn thành mục đích thiêng liêng đã được thiết lập trong quá khứ vĩnh cửu! Đây chính là sự bày tỏ của nguyên tắc.
“Cơn giận loài người hẳn sẽ ngợi khen Chúa” (Thi-thiên 76:10).
Trước khi dựng nên trời và đất, Đấng Tạo Hóa đã xác định tình trạng của mỗi tạo vật và mọi hành động trong lịch sử đều phải vì vinh quang và danh của Ngài chứ không vì ai khác. Ngài cũng xác định rằng một ngày kia, “khi nghe đến danh Chúa Giê-su, mọi đầu gối đều phải quỳ xuống, bất kể vật gì trên trời, vật gì dưới đất, và vật gì dưới đất. và mọi lưỡi phải tuyên xưng rằng Chúa Giê-su là Chúa, để tôn vinh Đức Chúa Trời là Cha” (Phi-líp 2:10-11).
Còn đối với những người cho rằng họ tìm thấy lỗi lầm trong mục đích đời đời của Chúa. Phao-lô viết:
“Nhưng, hỡi người, ngươi là ai, mà dám cãi lại cùng Đức Chúa Trời? Có lẽ nào cái bình bằng đất sét lại nói với kẻ nắn nên mình rằng: Sao ngươi đã làm nên ta như vậy? Người thợ gốm há chẳng có quyền trên đất sét, cùng trong một đống mà làm ra hạng bình để dùng việc sang trọng, lại hạng khác để dùng việc hèn hạ sao? Nếu Đức Chúa Trời muốn tỏ ra cơn thạnh nộ và làm cho biết quyền phép Ngài, đã lấy lòng khoan nhẫn lớn chịu những bình đáng giận sẵn cho sự hư mất, để cũng làm cho biết sự giàu có của vinh hiển Ngài bởi những bình đáng thương xót mà Ngài đã định sẵn cho sự vinh hiển, thì còn nói chi được ư? Đó tôi nói về chúng ta, là kẻ Ngài đã gọi, chẳng những từ trong người Giu-đa, mà cũng từ trong dân ngoại nữa” (Rô-ma 9:20-24).
Nói tóm lại, Người Thợ gốm thiên thượng đã định trước rằng một số tạo vật của Ngài phải được “chỉ định” làm bình chứa ô nhục, mà kết cục của chúng sẽ là cơn thịnh nộ vĩnh cửu. Những người khác (được làm bằng cùng một loại đất sét) được thiết lập trở thành những chiếc bình sang trọng để mang lại vinh quang cho danh Ngài và được ban cho phước hạnh vĩnh cửu trong thiên đàng. Nếu Phao-lô rao giảng một thông điệp như vậy trên tòa giảng của “hội truyền giáo” ngày nay thì rất có thể các viên chức sẽ họp lại phản đối và họ đuổi ông ra khỏi nhà thờ trước khi ngồi lại để ăn trưa với nhau.
Bạn có ngạc nhiên khi đọc lời này:
“Đức Giê-hô-va phán: Ý tưởng ta chẳng phải ý tưởng các ngươi, đường lối các ngươi chẳng phải đường lối ta. Vì các từng trời cao hơn đất bao nhiêu, thì đường lối ta cao hơn đường lối các ngươi, ý tưởng ta cao hơn ý tưởng các ngươi cũng bấy nhiêu” (Ê-sai 55:8-9).
Chắc chắn đường lối của Đức Chúa Trời không phải là đường lối mà con người có thể nghĩ ra. Tuy nhiên, hãy nhớ rằng, con đường có vẻ đúng với lý trí của con người thực ra là con đường của Sa-tan và kết thúc bằng sự chết đời đời (xem Châm-ngôn 14:12).
Con người có thể thông đồng với nhau và lập kế hoạch theo hướng dẫn của Sa-tan, nhưng họ không thể thực hiện được dù chỉ một hành động trái với ý muốn và kế hoạch của Đức Chúa Trời. Ngài đã định trước toàn bộ lịch sử từ những sự kiện lớn nhất cho đến sự kiện tầm thường nhất phải đi theo kế hoạch của Ngài. Kết quả là các thánh đồ có thể “tạ ơn Chúa trong mọi sự” vì họ biết rằng Đấng Tạo Hóa đã vạch ra một kế hoạch bảo đảm rằng “mọi sự” trong lịch sử sẽ cùng nhau hoạt động vì lợi ích của những người được chọn. Họ có thể đối mặt với những kẻ thù tìm cách hủy hoại cuộc sống của họ, cũng như gây ra những sự kiện đau buồn, và họ có thể nói như Giô-sép ngày xưa:
“Các anh toan hại tôi, nhưng Đức Chúa Trời lại làm điều lành cho tôi” (Sáng. 50:20).
Giống như Nê-bu-cát-nết-sa, sau khi tỉnh táo trở lại, ông nhận biết, “hết thảy dân cư trên đất thảy đều cầm như là không có; Ngài làm theo ý mình trong cơ binh trên trời, và ở giữa cư dân trên đất; chẳng ai có thể cản tay Ngài và hỏi rằng: Ngài làm chi vậy?” (Đa-ni-ên 4:35).
Loraine Boettner đã tóm tắt: “Mọi thứ đã được Đức Chúa Trời ấn định và ấn định một cách không thể sai lầm ngay từ đầu, và tất cả những gì xảy ra trong tiến trình lịch sử chỉ là sự hoàn thành của những gì đã được ấn định trong cõi đời đời.”
“Đức Giê-hô-va phán: Hãy nhớ lại những sự ngày xưa; vì ta là Đức Chúa Trời, và chẳng có Chúa nào khác; ta là Đức Chúa Trời, chẳng có ai giống như ta. Ta đã rao sự cuối cùng từ buổi đầu tiên, và đã nói từ thuở xưa những sự chưa làm nên. Ta phán rằng: Mưu của ta sẽ lập, và ta sẽ làm ra mọi sự ta đẹp ý. Ta gọi chim ó đến từ phương đông, và gọi người làm mưu ta đến từ xứ xa. Điều ta đã rao ra, ta sẽ làm hoàn thành, điều ta đã định, ta cũng sẽ làm” (Ê-sai 46:9-11).
Những lời Chúa phán ở trên thật rõ ràng. Tâm trí xác thịt của con người coi thường học thuyết về ân điển tối cao. Lòng con người nổi loạn khi chống lại các sắc lệnh của Đấng Toàn Năng là Đấng cai trị mà ý chỉ của Ngài không bao giờ thay đổi. Con người xác thịt ghét bị nói như thế này:
“Lòng người mưu tính đường lối mình, nhưng Đức Giê-hô-va chỉ dẫn các bước người” (Châm ngôn 16:9).
Tâm trí xác thịt tôn cao bản ngã, tôn cao vị thần của riêng mình. Con người tội lỗi không thể chấp nhận khi Đức Chúa Trời phán:
“Đi đi! nói với dân nầy rằng: Các ngươi hãy nghe, nhưng chẳng hiểu chi; hãy xem, nhưng chẳng thấy chi. Hãy làm cho dân ấy béo lòng, nặng tai, nhắm mắt, e rằng mắt nó thấy được, tai nó nghe được, lòng nó hiểu được, nó trở lại và được chữa lành chăng!” (Ê-sai 6:9-10).
Tuy nhiên, đây chính xác là lời Đức Chúa Trời mà chúng ta biết trong Kinh Thánh, cho dù chúng ta có nhìn thấy công việc Ngài qua Cựu Ước hay không. Công việc của Ngài còn bày tỏ qua các sứ đồ và trong chức vụ của Chúa Giê-su. Martin Luther thẳng thắn nói: “Điều này xúc phạm mạnh mẽ đến cách suy luận hợp lý của chúng ta, rằng Đức Chúa Trời theo ý muốn của Ngài để một số người tự do trong tội lỗi và sau đó kết án họ. Tuy nhiên Ngài đã liên tục bày tỏ sự hiện hữu và ơn thương xót của Ngài trên nhiều phương diện nhưng người ta vẫn không tin Ngài… Nguyên nhân duy nhất khiến một số người được cứu và những người khác bị hư mất đều là do ý muốn của Ngài.”
Vì vậy “Ngài muốn thương xót ai thì thương xót, muốn làm cứng lòng ai thì làm” (Rô-ma 9:18). Lời Đức Chúa Trời là quyền năng cứu rỗi cho tất cả những ai tin. Ngài quyết định ai sẽ tin và ai không tin. Chúa tuyên bố:
“Lời nói của ta cũng vậy, đã ra từ miệng ta, thì chẳng trở về luống nhưng, mà chắc sẽ làm trọn điều ta muốn, thuận lợi công việc ta đã sai khiến nó” (Ê-sai 55:11).
Ghi chú! Ý muốn của Đức Chúa Trời được thực hiện bởi Lời Đức Chúa Trời bất cứ khi nào nó được rao giảng. Hai người đàn ông là anh em sinh đôi giống hệt nhau, đang ngồi trong nhà thờ khi tham dự một buổi giảng Lời Chúa. Một người đầu phục Chúa Giê-su, còn người kia từ chối. Tại sao? (Hãy cẩn thận, không trả lời dựa trên lý luận của con người nhưng dựa trên Kinh Thánh!) Theo Kinh Thánh, Lời Đức Chúa Trời hoàn thành ý muốn của Đức Chúa Trời. Một người tin vì đó là ý muốn của Đức Chúa Trời, và người kia từ chối vì đó cũng là ý muốn Đức Chúa Trời.
Nếu không có sự lựa chọn thiêng liêng dành cho một số người để được cứu rỗi, thì sẽ không ai tin. Chỉ có những người được “tuyển chọn để được cứu rỗi” tin, vì Lời của Đức Chúa Trời không bao giờ trở về một cách vô ích. Nó luôn luôn, và không có ngoại lệ, hoàn thành chương trình của Đức Chúa Trời, bởi vì Ngài thiết lập kế hoạch thần thượng, mà nó sẽ thành hiện thực trong từng chi tiết nhỏ nhất.
“Những người ngoại nghe lời đó thì vui mừng, ngợi khen đạo Chúa, và phàm những kẻ đã được định sẵn cho sự sống đời đời, đều tin theo” (Công vụ 13:48).
I Hoàn toàn sa ngã.
Điểm đầu tiên trong Năm điểm của thuyết Calvin có thể dễ dàng ghi nhớ dưới chữ “T” của chữ viết tắt tạo thành từ TULIP. “T” là viết tắt của sự sa ngã hoàn toàn.
Để hiểu đúng về giáo lý cứu rỗi, chúng ta phải khám phá ra giáo lý về con người theo Kinh Thánh là gì. Kinh Thánh có đồng ý với quan điểm của người Arminian rằng con người không hoàn toàn sa ngã hay nó tuyên bố rằng con người hoàn toàn sa ngã (nghĩa là hoàn toàn không thể đương đầu với tình trạng tội lỗi của mình để đạt được hoặc góp phần vào sự cứu rỗi của chính mình.) J. C. Ryle đã tuyên bố một cách khéo léo:
“Có học thuyết sai lầm mà khởi đầu bắt nguồn từ quan điểm không lành mạnh về sự sa ngã của bản chất con người. Quan điểm sai lầm về căn bệnh sẽ luôn mang theo sự sai lầm về phương pháp chữa trị. Quan điểm sai lầm về sự suy thoái của bản chất con người sẽ luôn mang theo những cách thức sai lầm về phương thuốc giải độc và chữa trị sự suy thoái đó.”
Chúng ta phải nhận thức rằng nếu bắt đầu bằng một giả thuyết sai lầm đồng nghĩa với việc dẫn đến một dị giáo. Các nhà thần học đáng kính đã hình thành điểm đầu tiên của thuyết Calvin năm điểm để đáp lại Năm điểm của thuyết Arminian. Thuyết Calvin nói rằng con người “hoàn toàn sa ngã”.
Ghi chú: Theo từ điển của đại học Merriam-Webster, định nghĩa cơ bản của dị giáo chính là “lập trường tôn giáo trái ngược với tín điều của Hội Thánh.” Định nghĩa thứ hai là “sự bất đồng quan điểm hay sự sai lệch so với một học thuyết chính thống.” Đây là một điểm khởi đầu rất tốt cho chúng ta. Những định nghĩa này xác định hai yếu tố chìa khóa: vị trí chi phối và vị trí đối nghịch. Với những gì liên quan đến giáo hội, thì bất cứ niềm tin hay thực hành nào đi ngược lại với vị trí chính thống của hội thánh đều bị xem là dị giáo.
Bây giờ vấn đề là các nhà thần học cải cách có ý nói gì với thuật ngữ hoàn toàn sa ngã này? Có lẽ chúng ta có thể trả lời tốt nhất bằng cách nêu rõ thuật ngữ này không có nghĩa là gì. Nó không có nghĩa là “sự sa ngã tuyệt đối.” Thuật ngữ thứ hai này có nghĩa là một người luôn thể hiện sự xấu xa trong bản chất tội lỗi của mình càng nhiều càng tốt. Hơn nữa, “sự sa ngã hoàn toàn” không có nghĩa là con người không có khả năng làm điều tốt cho người khác. Tất cả chúng ta đều biết rằng những kẻ xấu xa nhất của nhân loại đều có một số điểm tốt, cũng như những người tốt nhất trong nhân loại cũng có một số điểm xấu. Tất cả chúng ta đều đã đọc những câu chuyện về bọn xã hội đen, trùm rượu, gái mại dâm và ma cô, cùng với những người bán ma túy và những thứ tương tự, là những người đã làm những việc lành cho người khác. Không, học thuyết cải cách về sự sa ngã hoàn toàn của con người không tìm cách nói rằng không có “cái tốt” của con người. Khi con người tự đánh giá mình, anh ta luôn có thể tìm thấy điều tốt đẹp nào đó ở bản thân hoặc ở người khác.
Theo những nhà thần học hàng đầu của Tin Lành cải chánh như Luther, Calvin và Knox, sự sa ngã hoàn toàn có nghĩa là con người tồi tệ đến nỗi con người không thể tự cứu chính mình. Như Phao-lô đã nói, con người được sinh ra trong thế giới này “chết trong những vi phạm và tội lỗi” và do đó hoàn toàn trung thành với Sa-tan. Vị sứ đồ lý giải:
“Anh em đã chết vì lầm lỗi và tội ác mình, đều là những sự anh em xưa đã học đòi, theo thói quen đời nầy, vâng phục vua cầm quyền chốn không trung, tức là thần hiện đương hành động trong các con bạn nghịch. Chúng ta hết thảy cũng đều ở trong số ấy, trước kia sống theo tư dục xác thịt mình, làm trọn các sự ham mê của xác thịt và ý tưởng chúng ta, tự nhiên làm con của sự thạnh nộ, cũng như mọi người khác” (Ê-phê-sô 2:1-3).
Tình trạng sa ngã của con người, hoặc hoàn toàn không có khả năng tự giải thoát khỏi tội lỗi, dựa trên thực tế là tâm linh con người đã chết từ khi sinh ra.
Sự sa ngã hoàn toàn có nghĩa là con người trong trạng thái tự nhiên của mình không có khả năng làm bất cứ điều gì hoặc mong muốn bất cứ điều gì đẹp lòng Đức Chúa Trời. Cho đến khi được “tái sinh” bởi Đức Thánh Linh và khởi đầu một đời sống mới. Con người là nô lệ của Sa-tan (vua cầm quyền chốn không trung), kẻ đã thúc đẩy con người thực hiện những ham muốn của xác thịt.
Trước mặt Đức Chúa Trời, “người tốt nhất” chỉ là những con người tìm kiếm vinh quang của chính mình hoặc Sa-tan chứ không bao giờ tìm kiếm vinh quang của Đấng Tạo Hóa. Kinh Thánh tuyên bố:
“Đức Giê-hô-va thấy sự hung ác của loài người trên mặt đất rất nhiều, và các ý tưởng của lòng họ chỉ là xấu luôn” (Sáng. 6:5). Sự sa ngã hoàn toàn còn có nghĩa là con người có thể nghĩ rằng mình chứa đựng nhiều điều “tốt lành”, nhưng Kinh Thánh nói:
“Lòng người dối trá hơn mọi vật, và cực kỳ gian ác, ai có thể biết được?” (Giê-rê-mi 17:9).
Theo ánh sáng Kinh Thánh, con người bị lên án vì yêu thích tội lỗi, không tuân theo ý muốn của Đức Chúa Trời và không thể dâng cho Đức Chúa Trời tất cả vinh quang. Khi con người khẳng định rằng bản thân vẫn còn một tia sáng thiêng liêng trong lòng, và đang tìm kiếm Chúa. Lời Chúa trả lời:
“Không có một người công bình nào, không, một người cũng không. Chẳng có người nào hiểu biết, chẳng có người nào tìm kiếm Đức Chúa Trời” (Rô-ma 3:10-11).
Từ vị trí cao cả của Chúa về sự công chính và thánh khiết tuyệt đối, Lời của Ngài tuyên bố về tình trạng thật của con người:
“Vả, sự đoán xét đó là như vầy: Sự sáng đã đến thế gian, mà người ta ưa sự tối tăm hơn sự sáng, vì việc làm của họ là xấu xa” (Giăng 3:19).
Con người hoàn toàn sa ngã theo nghĩa là mọi thứ về bản chất của họ đều chống lại Đức Chúa Trời. Con người yêu bóng tối hơn là ánh sáng. Do đó, ý chí của con người không hề “tự do”. Nó bị ràng buộc với vua chúa của bóng tối. Sự sa ngã hoàn toàn có nghĩa là con người, với “ý chí tự do” của riêng mình, sẽ không bao giờ đưa ra quyết định bằng lòng tiếp nhận Đấng Christ. Ngay cả Chúa Giê-su cũng thẳng thắn nói:
“Các ngươi không muốn đến cùng ta để được sự sống” (Giăng 5:40).
Tại sao Chúa nói điều này? Bởi vì ý chí của con người không được tái sinh bị ràng buộc bởi những sợi dây tội lỗi và sự chết. Như Phao-lô đã nói với Ti-mô-thê, họ ở trong “cái bẫy của ma quỷ” và “bị Sa-tan bắt giữ để làm theo theo ý muốn của nó” (xem 2 Ti-mô-thê 2:26).
Sự sa ngã hoàn toàn có nghĩa là con người tự nhiên hoàn toàn không có khả năng nhận thức được lẽ thật. Trên thực tế, con người chưa được tái sinh cảm thấy buồn cười khi được ai đó nói đến những điều thuộc về Thánh Linh của Đức Chúa Trời.
“Vả, người có tánh xác thịt không nhận được những sự thuộc về Thánh Linh của Đức Chúa Trời; bởi chưng người đó coi sự ấy như là sự rồ dại, và không có thể hiểu được, vì phải xem xét cách thiêng liêng.” (1 Cô. 2:14).
Mệnh đề sự sa ngã hoàn toàn phù hợp với Kinh Thánh. Con người tự nhiên không thể thấy hay biết những điều liên quan đến vương quốc của Đức Chúa Trời cho đến khi được tái sinh bởi Đức Thánh Linh. Một người thiên nhiên (đang chết thuộc linh) chỉ nhận thức được những điều thuộc về con người và Satan. Vì vậy, Chúa Giê-su phán với Ni-cô-đem:
“Nếu một người không được tái sinh, thì không thể thấy được Nước Đức Chúa Trời” (Giăng 3:3).
Những đứa trẻ chưa chào đời không nhìn thấy ánh sáng. Người chết phần tâm linh không phải là ánh sáng. Con người chưa gặp Chúa không thể nhìn thấy, không thể hiểu được những điều thuộc về Đức Chúa Trời. Họ là những kẻ chết về mặt tâm linh chỉ biết đến bóng tối. Họ hoàn toàn suy đồi, hoàn toàn không có khả năng suy nghĩ, nhận thức hoặc làm bất cứ điều gì nhằm tôn vinh Đức Chúa Trời, cho đến khi Đức Chúa Trời thấy phù hợp để ban cho sự sống và khai mở tâm trí họ. Đức tin nối tiếp sự trao ban sự sống. Việc ban cho sự sống là do ý muốn của Đức Chúa Trời. Chú ý thứ tự trong câu Kinh văn này:
“Đức Chúa Trời, là Đấng giàu lòng thương xót, vì tình yêu lớn lao của Ngài đã yêu chúng ta, ngay cả khi chúng ta đã chết trong tội lỗi, Ngài đã làm cho chúng ta sống lại với Đấng Christ, ấy là nhờ ân điển mà anh em được cứu” (Ê-phê-sô 2:4-5).
Con người không được cứu bởi một số công đức theo ý chí tự do của chính mình. Tội nhân được cứu nhờ ân điển của Đức Chúa Trời, là Đấng trước tiên ban cho sự sống và sau đó truyền đức tin cho con người như một món quà miễn phí. Phao-lô viết tiếp:
“Vì nhờ ân điển, bởi đức tin mà anh em được cứu; điều đó không phải do anh em mà là sự ban cho của Đức Chúa Trời. Không phải do việc làm, kẻo có người nào khoe khoang” (Ê-phê-sô 2:8-9)
Khi tổng hợp các câu Kinh Thánh liên quan, chúng ta thấy sự cứu rỗi là món quà của Đức Chúa Trời. Đó không phải là công việc của con người. Đức Chúa Trời đã xác nhận rằng các công việc của xác thịt sẽ không góp phần vào sự cứu rỗi. Điều này phải được chính Ngài cung cấp. Đó là công việc của Ngài ban cho món quà sự sống. Ngài tái sinh chúng ta khi chúng ta còn chết trong tội lỗi. Ngay cả đức tin của chúng ta cũng là món quà của Ngài. Chúng ta được cứu bởi ân điển, điều này không thuộc về chúng ta.
Sự sa ngã hoàn toàn xác nhận con người không có ý chí tự do để có thể tin nhận Chúa Giê-su Christ là Chúa và Đấng Cứu Rỗi của mình. Kinh Thánh dạy rằng con người là nô lệ của tội lỗi, rằng con người tự nhiên đã chết về tâm linh, con người chỉ yêu thích bóng tối chứ không phải là ánh sáng, và nghe theo tiếng nói của Sa-tan, cho đến khi Chúa cho tai để nghe và mắt để thấy những giá trị thuộc linh. “Tai để nghe, mắt để thấy, Đức Giê-hô-va đã làm ra cả hai” (Châm ngôn 20:12). Chúa Giê-su giải thích về điều này.
“Tại sao các ngươi không hiểu lời ta? Ấy là bởi các ngươi chẳng có thể nghe được đạo của ta. Các ngươi bởi cha mình, là ma quỉ, mà sanh ra; và các ngươi muốn làm nên sự ưa muốn của cha mình” (Giăng 8:43-44).
Sự sa ngã hoàn toàn có nghĩa là con người chưa được tái sinh bị mắc kẹt trong tội lỗi một cách vô vọng, bị Sa-tan trói buộc bằng dây sự chết, và hoàn toàn không quan tâm, không hiểu biết những điều thiêng liêng. Đến lúc những mối ràng buộc đó bị phá vỡ và sự chết tâm linh được thay thế bằng sự sống đời đời, thì đó là công việc của Đức Chúa Trời là Đấng ban cho đức tin. Đây là lý do tại sao Phao-lô nói với những người được chọn:
“Vì chính Đức Chúa Trời cảm động trong anh em vừa muốn vừa làm theo ý tốt của Ngài” (Phi-líp 2:13).
Giống như La-xa-rơ sẽ không bao giờ nghe được tiếng phán của Chúa Giê-su, cũng như anh ta sẽ không bao giờ đến với Chúa Giê-su nếu không được Ngài ban cho sự sống trước, vì vậy tất cả những người “chết vì vi phạm và tội lỗi” trước hết phải được Chúa ban cho sự sống trước khi họ có thể đến với Đấng Christ. Vì những người chết về tâm linh không thể nhận sự sống mà chỉ có thể sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng của Đức Chúa Trời.
Kết luận là con người tự nhiên không thể cậy vào ý muốn của mình mà nhận lãnh được sự sống đời đời (Giăng 10:26- 28)
Sự sa ngã hoàn toàn tuyên bố rằng hy vọng duy nhất của con người là trong sự tuyển chọn dựa trên mục đích hoặc kế hoạch của Đức Chúa Trời. Chỉ những ai thuộc về Chúa mới nghe thấy tiếng Chúa kêu gọi mình. Chúa Giê-su nói với những người không tin vào Ngài.
“Ai ra bởi Đức Chúa Trời, thì nghe lời Đức Chúa Trời; cho nên các ngươi chẳng nghe, tại các ngươi không thuộc về Đức Chúa Trời” (Giăng 8:47).
II Sự tuyển chọn vô điều kiện.
Điểm thứ hai trong Năm điểm của Calvinism được ghi nhớ dễ dàng dưới chữ cái “U” của chữ viết tắt tạo thành từ TULIP. Chữ “U” đó là viết tắt của sự tuyển chọn vô điều kiện. Học thuyết này được trình bày trong Bản Tuyên xưng Đức tin của người Baptist năm 1689 theo các thuật ngữ gần như giống hệt với Bản tuyên xưng của Westminster và 39 Tín Lý căn bản của Giáo hội Anh. Có thể tóm lược nội dung của nó:
“Nhiều người giữa vòng nhân loại đã được định trước cho sự sống đời đời. Trước khi tạo dựng thế giới, Đức Chúa Trời theo mục đích vĩnh cửu và bất biến của Ngài, cũng như ý muốn tốt đẹp của Ngài, đã chọn họ trong Đấng Christ để được vinh hiển vĩnh cửu. Điều này đến từ ân điển và tình yêu vô điều kiện của Ngài, không có bất kỳ thứ gì khác trong các tạo vật như một điều kiện hay nguyên nhân khiến Ngài làm điều đó.”
Khi nghĩ về điểm này, chúng ta sẽ nhớ rằng quan điểm của người Arminian cho rằng sự biết trước dựa trên hành động tích cực của ý chí con người như là điều kiện hoặc nguyên nhân khiến Đức Chúa Trời lựa chọn người đó để được cứu rỗi. Tất cả những bản tuyên xưng đức tin đều đồng ý tuyên bố rằng sự tuyển chọn của Đức Chúa Trời để tội nhân được cứu là vô điều kiện. Nói cách khác, sự biết trước của Đức Chúa Trời dựa trên sắc lệnh, kế hoạch hoặc mục đích của Ngài thể hiện ý muốn Ngài, chứ không phải dựa trên một số hành động tích cực được dự đoán trước. Do đó, chúng ta phải hướng sự chú ý của chúng ta đến Kinh Thánh để khám phá xem liệu sự biết trước dựa trên ý muốn và mục đích của con người hay là của Đức Chúa Trời.
“Vả, chúng ta biết rằng mọi sự hiệp lại làm ích cho kẻ yêu mến Đức Chúa Trời, tức là cho kẻ được gọi theo ý muốn Ngài đã định. Vì những kẻ Ngài đã biết trước, thì Ngài cũng đã định sẵn để nên giống như hình bóng Con Ngài, hầu cho Con nầy được làm Con cả ở giữa nhiều anh em” (Rô-ma 8:28-29).
Ở đây, chúng ta thấy rằng sự lựa chọn dựa trên kế hoạch thiêng liêng (theo mục đích của Ngài) vì vậy sự biết trước cũng phải dựa trên mục đích của Đức Chúa Trời chứ không phải dựa trên công đức của những người được chọn. Đây là lý do Phao-lô tuyên bố:
“Về phần Rê-bê-ca, khi bà ấy bởi tổ phụ chúng ta là Y-sác mà có thai đôi cũng vậy. Vì khi hai con chưa sanh ra, chưa làm điều chi lành hay dữ – hầu cho được giữ vững ý chỉ Đức Chúa Trời, là ý định sẵn bởi sự kén chọn tự do của Ngài, chẳng cứ việc làm, nhưng cứ Đấng kêu gọi” (Rô-ma 9:10-11).
Ở đây, vị sứ đồ tuyên bố rằng nền tảng của sự lựa chọn là ở chính Đức Chúa Trời, nghĩa là trong ý muốn và mục đích của Ngài, chứ không phải trong một hành động đức tin hay một số điều kiện nơi con người dù tốt hay xấu. Sự lựa chọn là vô điều kiện. Con người không thể làm gì để xứng đáng với sự lựa chọn của Chúa.
Kinh Thánh nhấn mạnh rằng Đức Chúa Trời không chọn những người được cứu vì họ có lòng tốt hoặc một số công đức nào đó đã thấy trước. Ngược lại, Ngài thích sử dụng những kẻ yếu đuối, thấp kém và bình thường để bảo đảm rằng chỉ một mình Ngài đáng được tôn vinh. Phao-lô viết:
“Hỡi anh em, hãy suy xét rằng ở giữa anh em là kẻ đã được gọi, không có nhiều người khôn ngoan theo xác thịt, chẳng nhiều kẻ quyền thế, chẳng nhiều kẻ sang trọng. Nhưng Đức Chúa Trời đã chọn những sự dại ở thế gian để làm hổ thẹn những kẻ khôn; Đức Chúa Trời đã chọn những sự yếu ở thế gian để làm hổ thẹn những sự mạnh; Đức Chúa Trời đã chọn những sự hèn hạ và khinh bỉ ở thế gian, cùng những sự không có, hầu cho làm những sự có ra không có, để chẳng ai khoe mình trước mặt Đức Chúa Trời” (1 Cô-rinh-tô 1:26-29).
Trong bức thư gửi cho Ti-mô-thê, vị sứ đồ cũng tái khẳng định sự lựa chọn vô điều kiện:
“Ấy chính Chúa đã cứu chúng ta, đã gọi chúng ta bởi sự kêu gọi thánh, chẳng phải theo việc làm chúng ta, bèn là theo ý riêng Ngài chỉ định, theo ân điển đã ban cho chúng ta trong Đức Chúa Giê-su Christ từ trước muôn đời vô cùng” (2 Tim. 1:9).
Một lần nữa, sự kêu gọi hay sự lựa chọn mà Chúa dành cho chúng ta không đến từ bất cứ điều kiện nào từ phía chúng ta. Vì bản chất sa ngã của con người chỉ có thể “tích cực” đối với Sa-tan hay ham thích đi theo nó mà thôi.
Chúa Giê-su xác nhận sự lựa chọn của Ngài dành cho chúng ta:
“Ấy chẳng phải các ngươi đã chọn ta, bèn là ta đã chọn và lập các ngươi” (Giăng 15:16).
Trên thực tế sự lựa chọn đó đã được thực hiện trước khi sáng thế.
“Ngài đã chọn chúng ta trong Đấng Christ trước khi sáng thế” (Ê-phê-sô 1:4).
Đối với bất kỳ ai tranh luận về điều này phải nhớ lời dạy của Con của Đức Chúa Trời:
“Ví bằng Cha, là Đấng sai ta, không kéo đến, thì chẳng có ai được đến cùng ta” (Giăng 6:44).
Chỉ những người mà Đức Chúa Cha thấy phù hợp để lựa chọn theo ý muốn tự do của Ngài, ngoài bất kỳ điều kiện nào về phía họ, mới được ban cho đức tin để nhận sự cứu rỗi. Hãy lưu ý lời ký thuật rõ ràng của Lu-ca:
“Các dân ngoại nghe lời ấy, thì vui mừng, tôn vinh đạo Chúa và tất cả những kẻ đã được định sẵn để hưởng sự sống đời đời đều tin theo” (Công vụ 13:48).
Chúa Giê-su nhấn mạnh rằng nếp sống đạo theo tiêu chuẩn Kinh Thánh và đức tin của tín hữu cũng là công việc của Đức Chúa Trời, không phải công việc của con người. Ngài dạy:
“Vả, Cha khiến những kẻ chết sống lại và ban sự sống cho họ thể nào, thì Con cũng ban sự sống cho kẻ Con muốn thể ấy; Các ngươi tin Đấng mà Đức Chúa Trời đã sai đến, ấy đó là công việc Ngài” (Giăng 5:21; 6:29).
Một nhà truyền giáo nói với khán thính giả, “Ai đến với Chúa Giê-su sẽ không bị bỏ rơi” nên thêm vào những lời dạy trước đó của Chúa Giê-su:
“Phàm những kẻ Cha cho ta sẽ đến cùng ta, kẻ đến cùng ta thì ta không bỏ ra ngoài đâu” (Giăng 6:37).
Ai sẽ không bị loại bỏ? Tất cả những ai đến với Ngài! Ngài dạy: “Tất cả những ai Chúa Cha ban cho ta”. Sự lựa chọn ai sẽ đến với Đấng Christ là của Đức Chúa Trời, không phải của con người.
Hãy nghe lời Chúa Giê-su phán với giới lãnh đạo Y-sơ-ra-ên về sự lựa chọn:
“Ta nói thật cùng các ngươi, về đời Ê-li, khi trời đóng chặt trong ba năm sáu tháng, cả xứ bị đói kém, trong dân Y-sơ-ra-ên có nhiều đàn bà góa; dầu vậy, Ê-li chẳng được sai đến cùng một người nào trong đám họ, nhưng được sai đến cùng một đàn bà góa ở Sa-rép-ta, xứ Si-đôn. Trong đời đấng tiên tri Ê-li-sê, dân Y-sơ-ra-ên cũng có nhiều kẻ mắc tật phung; song không có ai lành sạch được, chỉ Na-a-man, người xứ Sy-ri mà thôi” (Lu-ca 4:25-27: xem Ê-sai 65:1).
Không có phẩm hạnh nào ở Na-a-man hoặc góa phụ ở Sa-rép-ta có thể được mô tả là “tốt”, nhưng Đức Chúa Trời thấy cần phải ban ân điển miễn phí đối với họ, mặc dù cả hai đều là người ngoại. Ngài bỏ qua những người tích cực tham gia vào việc giữ luật pháp Môi-se mà ban ân huệ cho những người chưa biết Ngài.
Tất nhiên, điều không thể tránh khỏi đã xảy ra khi Chúa Giê-su đề cập đến chủ đề lựa chọn vô điều kiện, tức là việc Đức Chúa Trời ban ân điển mà không có một số điều kiện nào với đối tượng của Ngài. Khi nghe như thế, người ta đã cố ném Ngài xuống một vách đá! Con người sa ngã trong tình trạng không thể phục hồi, không chấp nhận bất kỳ lời giảng dạy nào từ chối mang lại cho họ ít nhất một phần vinh quang!
Hãy xem một ví dụ khác, khi Chúa Giê-su kết thúc bài giảng của Ngài về chủ đề Ngài là bánh từ trời xuống, Ngài phán:
“Chính vì cớ đó, mà ta đã nói cùng các ngươi rằng nếu Cha chẳng ban cho, thì chẳng ai tới cùng ta được. Từ lúc ấy, có nhiều môn đồ trở lui, không đi với Ngài nữa” (Giăng 6:65-66).
Tại sao? Bởi vì Con Đức Chúa Trời đã nhấn mạnh rằng sự lựa chọn dựa trên ý muốn của Đức Chúa Trời chứ không phải ý muốn của con người! Ngài tước bỏ quan niệm thổi phồng cái tôi của họ rằng một số điều kiện tốt trong họ đã dẫn đến việc Chúa tuyển chọn họ.
Con người hoàn toàn sa ngã, không thể đưa ra quyết định tiếp nhận Đấng Christ. Nếu không được Đức Chúa Trời ban cho sự sống và đức tin, con người sẽ không bao giờ đến với Chúa Giê-su.
“Các ngươi không muốn đến cùng ta để được sự sống” (Giăng 5:40).
Josiah Condo đã viết:
Không phải là tôi đã chọn Ngài.
Vì Chúa ơi,
Tấm lòng này vẫn từ chối Ngài,
Nếu Ngài không chọn tôi!
Sự Chuộc Tội Có Giới Hạn.
Bây giờ chúng ta đến với điều có thể là khó khăn nhất trong Năm điểm của thuyết Calvin bởi vì cộng đồng Cơ đốc giáo đã bị ảnh hưởng về mặt cảm xúc bởi những thực hành sai lầm xuất phát từ học thuyết sai lầm liên quan đến việc huy động những người truyền giáo và thu quỹ cho các hoạt động này.
Khi chúng ta nói về công lao của Đấng Christ trên thập tự giá, liệu chúng ta có đúng khi nói rằng Ngài đã chết cho tất cả mọi người một cách bình đẳng và như nhau (như người Arminian nói), hay chúng ta nói chính xác hơn (với những người theo thuyết Calvin) rằng Đấng Christ đã chết chỉ dành cho những người được chọn?
Trước khi đi đến một kết luận vội vàng chỉ dựa trên cảm xúc và truyền thống giáo phái, chúng ta hãy xem Lời Đức Chúa Trời nói gì về vấn đề cực kỳ quan trọng này.
Phần lớn những gì chúng ta nghĩ về cái chết chuộc tội của Đấng Christ sẽ bị giảm bớt bởi những gì chúng ta hiểu từ “thế gian” đơn giản có nghĩa là gì. Trong Phúc âm của Giăng, từ này có ý nghĩa đặc biệt, vì nó có thể có một trong bảy nghĩa khác nhau: (1) nghĩa cổ điển, tức là vũ trụ có trật tự, (2) chính trái đất, (3) cư dân rên trái đất, (4) nhân loại dưới sự phán xét của Đấng Tạo Hóa vốn xa cách Ngài, (5) công chúng hướng về Chúa Giê-su, đặc biệt là người Do Thái, (6) vương quốc của các thế lực xấu xa, thiên sứ cũng như con người, liên quan đến trái đất, và (7) nhiều người được tuyển chọn từ mọi bộ lạc và quốc gia nhưng không phải tất cả các bộ lạc và quốc gia.
Nói cách khác, thuật ngữ “thế gian” có thể đề cập đến tất cả những gì Đức Chúa Trời đã tạo ra, hoặc trái đất mà loài người sinh sống, hoặc toàn thể nhân loại, hoặc những người Palestine cùng thời với Chúa chúng ta, người Do Thái, hay tất cả những kẻ ác, các “giá trị văn hóa” liên quan đến trái đất đang chống lại Đức Chúa Trời, hoặc những người được chọn từ mọi bộ lạc và quốc gia trên mặt đất. Bất cứ nơi nào từ “thế gian” xuất hiện, nó phải được xử lý trong ngữ cảnh giống như cách mà tất cả các từ trong Kinh Thánh phải được hiểu đúng trong ngữ cảnh. Ví dụ, Kinh Thánh ghi lại những người Pha-ri-si nói rằng:
“Kìa, cả thiên hạ/thế gian đều chạy theo người” (Giăng 12:19).
Rõ ràng từ ngữ cảnh này, chúng ta thấy không phải tất cả nhân loại đều theo Chúa Giê-su, vì chính các người Pha-ri-si đã từ chối làm như vậy. Hơn nữa, chúng ta có thể thấy rằng không phải mọi người trên mặt đất đều đi theo Đấng Christ. Vào lúc đó, “thiên hạ hay thế gian” chỉ bao gồm một số người Do Thái hay Dân Ngoại, là những người đã nhiệt tình đi theo Chúa Giê-su (vì họ đã nghe nói rằng Ngài đã khiến La-xa-rơ sống lại từ cõi chết).
Thêm một ví dụ khác.
“Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời” (Giăng 3:16).
Người Arminian giả định một cách hợp lý rằng từ “thế gian” khiến cả nhân loại bối rối vì họ tin rằng số phận một người được xác định sau khi Đức Chúa Trời thấy trước công việc của người đó về ý chí tích cực với Đấng Christ. Những người Calvinist giả định một cách logic về định nghĩa thế gian là nhiều người được lấy ra từ mọi bộ lạc và quốc gia, nhưng không phải tất cả các bộ lạc và quốc gia. Điều này xuất phát từ niềm tin rằng Kinh Thánh tiết lộ sự lựa chọn dựa trên mục đích của Đức Chúa Trời, và không bị ảnh hưởng bởi bất kỳ tình trạng nào của con người, vì ý chí của con người không tự do mà bị ràng buộc bởi Sa-tan, tội lỗi và sự chết.
Bạn thấy đấy, nếu bạn tin rằng Kinh Thánh dạy rằng Đức Chúa Trời có quyền tể trị, kế hoạch của Ngài là bất biến, và sự lựa chọn của Ngài là vô điều kiện, thì bạn phải kết luận rằng sự chuộc tội chỉ giới hạn cho những người mà Ngài chọn ra cho đối tượng của ân điển. Thật ra, ân điển có nghĩa là ân huệ ban cho người không xứng đáng. Vì vậy thuật ngữ này, theo bản chất của định nghĩa, phủ nhận sự tuyển chọn có điều kiện.
Quan điểm của Arminian khẳng định rằng chính hành động đức tin của con người xứng đáng được tuyển chọn theo sự biết trước của Đức Chúa Trời. Nếu đúng như vậy, con người được cứu bởi việc làm hay công đức chứ không phải bởi ân điển của Đức Chúa Trời, bởi vì người đó đã làm ít nhất một điều nào đó đẹp lòng Đức Chúa Trời, và tất cả là do chính anh ta quyết định cho sự cứu rỗi của mình? Phao-lô khẳng định: “vì mọi người đều đã phạm tội, thiếu mất sự vinh hiển của Đức Chúa Trời, và họ nhờ ân điển Ngài mà được xưng công bình nhưng không, bởi sự chuộc tội đã làm trọn trong Đức Chúa Giê-su Christ” (Rô-ma 3:23-24).
Để trở lại chủ đề này với Giăng 3:16, chúng ta hãy đặt câu hỏi.
Ai không bị hư mất mà được sự sống đời đời?Theo Kinh Thánh, ai sẽ tin nhận Chúa?Vậy thì, ai được bao gồm trong từ “thế gian”?
Gần như tất cả mọi người sẽ đồng ý rằng câu trả lời cho câu hỏi 1 là “bất cứ ai tin vào Ngài” Người Arminian sẽ trả lời câu hỏi 2, “Bất cứ ai tự nguyện chọn tin vào Đấng Christ.” Người Calvinist sẽ trả lời, “Những người mà Cha đã chọn trong Đấng Christ, theo ý muốn của Ngài.” Bây giờ, lưu ý một điều đó tuyệt vời! Cả hai đều đồng ý rằng “thế gian”, theo thuật ngữ của những người mà Chúa Giê-su đã chết thế cho – tức là những người tin, có nghĩa là “những người được chọn từ mọi bộ lạc và quốc gia, nhưng không phải tất cả các bộ lạc và quốc gia nói chung”, vì không phải tất cả sẽ tin vào Đấng Christ.
Người Arminian ít nhất phải đồng ý rằng mặc dù huyết của Đấng Christ và sự chết của Ngài có giá trị trước ngôi của Đức Chúa Trời, nhưng nó chỉ có tác dụng hoặc hiệu quả trong chừng mực nào đó. Trên thực tế, quan điểm của người Arminian về sự chuộc tội phổ quát là không thể chấp nhận được. Mục đích duy nhất của họ là nói rằng ý muốn của Đức Chúa Trời bị con người làm cho thất bại, bởi vì Đấng Christ được cho là đã chết cho tất cả những người mà Đức Chúa Trời muốn cứu, nhưng Đấng Christ không thể làm được điều đó. Vậy thì có nghĩa là Đức Chúa Trời không toàn năng và Đấng Christ chỉ giành được một chiến thắng nhỏ trên thập tự giá, vì nhiều người đã chết trong sự vô tín hơn là được vinh hiển nhờ đức tin vào công việc đã hoàn thành của Đấng Christ tại đồi Gô-gô-tha. Phi-e-rơ viết:
“Chúa không muốn một người nào bị hư mất” (2 Phi-e-rơ 3:9).
Đúng, nhưng hãy công bằng với các quy tắc cơ bản về ngữ pháp và diễn giải tiếng Anh (hoặc tiếng Hy Lạp, nếu bạn có thể, vì cả hai đều đi đến cùng một kết luận). Bắt đầu bằng cách trả lời câu hỏi tiếp theo. Thư tín thứ hai của ông gửi cho ai, trong đó có câu này:
“Si-môn Phi-e-rơ, làm tôi tớ và sứ đồ của Đức Chúa Giê-su Christ, gởi cho những kẻ cậy sự công bình của Đức Chúa Trời chúng ta và của Cứu Chúa là Đức Chúa Giê-su Christ, đã lãnh phần đức tin đồng quí báu như của chúng tôi.” 2 Phi-e-rơ 1:1
Phi-e-rơ đang viết thư cho những người tin, cho những người được chọn, cho những người có đức tin dựa trên sự công bình của Đức Chúa Trời chứ không phải trên một điều kiện nào đó về sự công bình của chính họ! Tiếp theo, hãy đặt câu hỏi: “Đâu là bối cảnh của đoạn văn trong đó câu hỏi này được tìm thấy?” Chúng ta đọc tiếp:
“Lời hứa về sự Chúa đến ở đâu?” (2 Phi-e-rơ 3:4).
Sau đó kiểm tra câu trả lời của Phi-e-rơ:
“Chúa không chậm trễ về lời hứa của Ngài như mấy người kia tưởng đâu; nhưng Ngài lấy lòng nhịn nhục đối với chúng ta…” (2 Phi-e-rơ 3:9).
Tạm dừng một chút và đưa ra câu trả lời công bằng cho câu hỏi, “Phi-e-rơ đang nói với ai khi sử dụng đại từ nhân xưng “chúng ta?” Ý của vị sứ đồ là tất cả mọi người, hay ông đang viết “cho những người đã nhận được đức tin quý giá như chúng ta” (2 Phi-e-rơ 1:1) như ông nói trong lời chào của bức thư này? Câu trả lời rõ ràng là Phi-e-rơ chỉ nói về những người tin Chúa khi ông dùng từ “chúng ta”.
Tại sao Chúa lấy lòng nhịn nhục đối với anh em? Vì một lẽ đơn giản là Ngài “không chậm trễ về lời hứa của Ngài như mấy người kia tưởng đâu, nhưng Ngài lấy lòng nhịn nhục đối với anh em, không muốn cho một người nào chết mất, song muốn cho mọi người đều ăn năn” (2 Phi-e-rơ 3:9). Một người nào ở đây phải được hiểu là một người nào trong vòng chúng ta. Hàm ý rằng không có một người nào được Chúa chọn phải bị hư mất.
Giả sử rằng Chúa Giê-su đã cất hội thánh vào năm 1850! Lúc đó bạn sẽ ở đâu? Chắc chắn bạn sẽ không tự ý tin Chúa Giê-su Christ để được cứu rỗi và có một chỗ trong hội thánh là cô dâu của Ngài!
Không ai có thể lấy 2 Phi-e-rơ 3:9 để ủng hộ quan điểm trên đây của người Arminian. Chúng ta phải xem xét ngữ cảnh của câu Kinh văn này. Phi-e-rơ viết ở đó, cũng như mọi nơi khác, là Đấng Christ đã chết cho chúng ta (những người được chọn) chứ không phải cho tất cả mọi người trên thế gian. Ông đồng ý với lời của Phao-lô:
“Vì Đức Chúa Trời đã khiến Đấng Christ trở nên tội lỗi vì chúng ta …và Đức Chúa Trời tỏ lòng yêu thương Ngài đối với chúng ta, khi chúng ta còn là người có tội, thì Đấng Christ vì chúng ta chịu chết” (2 Cô. 5:21: Rô-ma 5:8)
Định nghĩa duy nhất của từ “thế gian” như được sử dụng trong Kinh Thánh, sẽ phù hợp với mọi đoạn văn đề cập đến sự cứu rỗi của những người được chọn, là “những người được chọn ra từ mọi bộ tộc và quốc gia, nhưng không phải toàn bộ nhân loại.” Phao-lô xác nhận lần nữa:
“Đã vậy thì chúng ta sẽ nói làm sao? Nếu Đức Chúa Trời vùa giúp chúng ta, thì còn ai nghịch với chúng ta? Ngài đã không tiếc chính Con mình, nhưng vì chúng ta hết thảy mà phó Con ấy cho, thì Ngài há chẳng cũng sẽ ban mọi sự luôn với Con ấy cho chúng ta sao? Ai sẽ kiện kẻ lựa chọn của Đức Chúa Trời? Đức Chúa Trời là Đấng xưng công bình những kẻ ấy.” (Rô-ma 8:31-33).
Chúa Giê-su đã không chết cho tất cả mọi người. Sự chuộc tội có giới hạn! Sự cứu chuộc là đặc biệt! Chỉ có Cô Dâu được chọn của Đấng Christ mới là đối tượng tình yêu của Ngài. Phao-lô nói cụ thể:
“Đấng Christ đã yêu Hội thánh, phó chính mình vì Hội thánh” (Ê-phê-sô 5:25).
“Tất cả” những người mà Đấng Christ đã chết thế cho là những người được Đức Chúa Trời chọn. Ngài ban cho họ làm Cô Dâu “thánh khiết và không chỗ trách được” của Đấng Christ. Ngài không chọn chúng ta vì chúng ta thánh khiết và không chỗ trách được! Phao-lô nói:
“Trước khi sáng thế, Ngài đã chọn chúng ta trong Đấng Christ, đặng làm nên thánh không chỗ trách được trước mặt Đức Chúa Trời, bởi sự thương yêu của Ngài đã định trước cho chúng ta được trở nên con nuôi của Ngài bởi Đức Chúa Giê-su Christ, theo ý tốt của Ngài” (Ê-phê-sô 1:4-5).
Không phải được chọn “bởi vì,” nhưng được chọn “để” chúng ta có thể nên thánh và không tì vết trước mặt Đức Chúa Trời. Chúng ta đã được định trước là “người được Chúa yêu” bởi vì không có điểm nào trong Kinh Thánh dùng thuật ngữ “được Chúa yêu” áp dụng cho bất kỳ người nào khác ngoài các thánh đồ! Nó không bao giờ được áp dụng cho thế gian nói chung là nơi bao gồm sự phản đối phúc âm. “Cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời” vẫn tồn tại trên những người ở bên ngoài hội thánh. Chỉ những người được tuyển chọn mới là đối tượng cụ thể của tình yêu Chúa dành cho. Phao-lô cầu nguyện:
“Nguyền xin anh em được ân điển và sự bình an ban cho bởi Đức Chúa Trời, là Cha, và bởi Đức Chúa Giê-su Christ, là Chúa chúng ta, là Đấng phó mình vì tội lỗi chúng ta, hầu cho cứu chúng ta khỏi đời ác nầy, y theo ý muốn Đức Chúa Trời, là Cha chúng ta, nguyền Ngài được vinh hiển đời đời vô cùng! A-men.” (Ga-la-ti 1:3-5).
Lấy một ví dụ rõ ràng nữa về thực tế là Kinh Thánh có giới hạn sự chuộc tội. Trong chương thứ mười của Phúc âm Giăng, Chúa Giê-su xác nhận chính Ngài là Đức Giê-hô-va, “Người Chăn Hiền Lành” của Thi thiên 23. Khi Ngài nói về “chiên” của Ngài, rõ ràng là Ngài muốn nói đến những con chiên được tuyển chọn là những người mà Chúa Cha đã ban cho Ngài. Ngài dạy:
“Ta là người chăn hiền lành, ta quen chiên ta, và chiên ta quen ta” (Giăng 10:14).
Ai là chiên của Ngài, ai nhận biết Ngài và Ngài biết ai? Không thể tranh luận với câu trả lời này: “Chiên của Chúa Giê-su là những người được chọn.” Lưu ý lời tuyên bố của Chúa Cứu thế:
“Ta hy sinh mạng sống mình vì đàn chiên” (Giăng 10:15). Nói cách khác, khi Đấng Christ hy sinh mạng sống của Ngài trên thập tự giá, Ngài đã hy sinh mạng sống đó cho bầy chiên của Ngài là những người được chọn của Đức Chúa Cha! Không phải tất cả mọi người trên thế giới đều được bao gồm trong thuật ngữ “chiên của ta? Vì vậy, Đấng Christ đã không hy sinh mạng sống của Ngài vì tất cả nhân loại. Đối với những người đứng xung quanh Ngài vào lúc đó, Chúa Giê-su thẳng thắn nói:
“Các ngươi không tin, vì các ngươi không thuộc về chiên của ta, như ta đã nói với các ngươi” (Giăng 10:26).
Những người bị quở trách, không được chọn là những người không tin, không được tính vào số những người mà Đấng Christ đã hy sinh mạng sống của Ngài. Ngài chỉ chết cho đàn chiên của Ngài. Hơn nữa, khi Ngài gọi họ bằng tên, họ theo Ngài. Vì Cha đã định trước rằng họ phải làm như vậy! Lưu ý những lời của Ngài:
“Chiên ta nghe tiếng ta, ta quen nó và nó theo ta” (Giăng 10:27).
Ngài ban sự sống đời đời như một món quà miễn phí cho những người mà Đức Chúa Cha đã ban cho Ngài trước khi vũ trụ được tạo dựng. Sự cứu rỗi là công việc của Đức Chúa Trời toàn năng, Đấng lớn hơn tất cả những chủ thể nào khác.
“Cha ta là Đấng lớn hơn hết đã cho ta chiên đó, và chẳng ai cướp nó khỏi tay ta.” (Giăng 10:29)
Kinh Thánh không dạy rằng Đấng Christ đã chết để cứu toàn thể nhân loại khỏi tội lỗi của họ. Chúng ta được cho biết rõ ràng rằng cái chết của Ngài được thiết kế để cứu rỗi dân Ngài, những người mà Cha đã chọn từ trước vô cùng.
“Anh em là dòng dõi được lựa chọn” (1 Phi-e-rơ 2:9).
Tại sao người Calvinist tin vào sự chuộc tội có giới hạn? Vì lý do đơn giản là Chúa Giê-su và các sứ đồ tin vào điều đó và đã dạy nó!
“Ngươi khá đặt tên là Giê-su, vì chính con trai ấy sẽ cứu dân mình khỏi tội” (Ma-thi-ơ 1:21).
“Đức Chúa Trời bày tỏ tình yêu thương của Ngài cho chúng ta khi chúng ta còn là người có tội, thì Đấng Christ vì chúng ta chịu chết.” (Rô-ma 5:8).
Ân điển không thể cưỡng lại
Điểm thứ tư của Calvinism “ân điển không thể cưỡng lại” đối lập với điểm thứ tư của thuyết Arminianism “ân điển có thể cản trở”. Người theo Calvinism nhấn mạnh rằng sự cứu rỗi dựa trên ý chỉ tuyệt đối của Đức Chúa Trời, và vì Đức Chúa Trời là Đấng toàn năng nên ân điển của Ngài không thể bị cưỡng lại. Người Arminian trả lời rằng sự cứu rỗi dựa trên ý chí tự do của con người là tạo vật có khả năng từ chối ý muốn tối cao của Đức Chúa Trời (ngay cả khi được Chúa Thánh Linh cáo trách). Anh ta đủ mạnh để cản trở hoặc chống lại ân điển của Đức Chúa Trời, Đấng muốn tất cả mọi người được cứu!
Có lẽ tốt nhất chúng ta nên bắt đầu bằng cách định nghĩa từ Hy Lạp charis được dịch một cách nhất quán là ân điển trong Tân Ước. Ý nghĩa cơ bản của từ này là ân huệ ban cho người không xứng đáng. Ân điển là điều mà Đức Chúa Trời ban cho con người mặc dù con người không xứng đáng (không xứng đáng bằng bất kỳ công trạng nào). Nếu con người xứng đáng với những gì anh ta nhận được từ Chúa, thì anh ta đã kiếm được đó. Làm việc kiếm được phần thưởng, nhưng ai không có việc làm để được Đức Chúa Trời ban ơn thì phải cầu xin ân điển. Đây là cơ sở cho luận điểm của Phao-lô:
“Vả, đối với kẻ nào làm việc, thì tiền công không kể là ơn, nhưng kể như là nợ, còn kẻ chẳng làm việc chi hết, nhưng tin Đấng xưng người có tội là công bình, thì đức tin của kẻ ấy kể là công bình cho mình” (Rô-ma 4:4-5)
Vì đức tin là món quà của Đức Chúa Trời và không phải do việc làm, mà là ân điển từ phía Đức Chúa Trời. Nếu công việc của đức tin là công việc của con người thì Đức Chúa Trời mắc nợ con người. Tuy nhiên, nếu đức tin là công việc của Đức Chúa Trời và là món quà của Đức Chúa Trời dành cho con người, thì con người hoàn toàn không có công trạng nào để đáng được cứu rỗi như một phần thưởng.
“Ấy chính Chúa đã cứu chúng ta, đã gọi chúng ta bởi sự kêu gọi thánh, chẳng phải theo việc làm chúng ta, bèn là theo ý riêng Ngài chỉ định, theo ân điển đã ban cho chúng ta trong Đức Chúa Giê-su Christ từ trước muôn đời vô cùng” (2 Tim. I: 9).
Khi người theo Calvinism nói về ân sủng không thể cưỡng lại, thì điều này có nghĩa gì? Điều đó không có nghĩa là Đức Chúa Trời bạo hành tinh thần con người bằng cách ép buộc họ làm điều gì đó mà họ không muốn làm. Ngài không ép buộc Giu-đa làm điều ông ta đã làm. Giu-đa đã hành động tự do, theo ý muốn của Sa-tan là chủ nhân của mình. Giu-đa không bị ép buộc, đã tham gia vào tiến trình hoàn thành ý định của Đức Chúa Trời. “Đức Chúa Giê-su ở Na-xa-rét, tức là Người mà Đức Chúa Trời đã dùng làm việc quyền phép, sự lạ và dấu lạ ở giữa các ngươi, để làm chứng cho Người trong vòng các ngươi, như chính các ngươi đều biết. Người đó bị nộp theo ý định trước và sự biết trước của Đức Chúa Trời, các ngươi đã mượn tay độc ác mà đóng đinh Người trên thập tự giá và giết đi” (Công vụ 2:22-23).
Ân điển không thể cưỡng lại của Đức Chúa Trời dành cho những người được chọn của Ngài, có nghĩa là Đức Chúa Trời, theo ý muốn tự do của Ngài, ban sự sống cho người mà Ngài chọn.
Điều ngược lại là những người đã chết đời sống tâm linh thì không thể chống lại được Satan, họ bị ma quỉ bắt lấy để làm theo ý nó. Đức Chúa Trời làm sống lại tất cả những người mà Ngài đã chọn trong Chúa Giê-su Christ trước khi sáng thế. Đó là món quà sự sống mới làm cho chúng ta tìm thấy Chúa Giê-su là Cứu Chúa và chúng ta chạy đến với Ngài mà không thể cưỡng lại được. Một con lợn. vì bản chất của nó, thích đắm mình trong bùn và bùn, trong khi một con cừu, vì bản chất của nó, không thích đắm mình trong bùn. “Chết trong sự vi phạm và tội lỗi” những người không tái sinh chìm đắm trong tội lỗi và vô tín bởi vì đó là bản chất của họ. Tuy nhiên, khi Đức Chúa Trời ban cho những người được chọn của Ngài là đối tượng trực tiếp của tình yêu thương của Ngài, một “bản chất mới”, thì những điều cũ qua đi và mọi sự trở nên mới! Bản chất mới hay tấm lòng mới là tâm linh con người sống động, trở thành một tạo vật mới trong Đấng Christ, vui mừng đến với Đấng Christ không thể cưỡng lại được.
Tuy nhiên, Arminianism khẳng định rằng ân điển của Đức Chúa Trời toàn năng có thể bị con người cản trở. Nói cách khác, chính Đức Thánh Linh trở nên bất lực trong việc truyền sự sống, nếu tội nhân thích từ chối Đấng Christ và chống lại sự lôi kéo của Thánh Linh Đức Chúa Trời. Luận điểm này trái ngược với lời dạy của Chúa Giê-su:
“Vả, Cha khiến những kẻ chết sống lại và ban sự sống cho họ thể nào, thì Con cũng ban sự sống cho kẻ Con muốn thể ấy” (Giăng 5:21).
Không chỗ nào trong Kinh Thánh nói rằng một người chọn sự sống đời đời theo ý muốn của bản thân. Ngược lại, Kinh Thánh nói rằng bất cứ ai Cha ban cho Con yêu dấu của Ngài thì người đó sẽ đến với Chúa Giê-su, đó là ý muốn của Ngài mà họ đến. Chúa Giê-su xác nhận:
“Phàm những kẻ Cha cho ta sẽ đến cùng ta, kẻ đến cùng ta thì ta không bỏ ra ngoài đâu” (Giăng 6:37).
Ai là người mà Chúa Giê-su tuyên bố rằng Ngài sẽ không bao giờ loại bỏ? Theo lời của Ngài, được đưa ra trong mệnh đề đầu của câu, đó là những người mà Cha đã định – họ sẽ đến với Ngài. Đây là ân điển không thể cưỡng lại!
Câu Kinh Thánh sau đây bày tỏ rằng không ai có thể ngăn cản ý muốn của Chúa:
“Hết thảy dân cư trên đất thảy đều cầm như là không có; Ngài làm theo ý mình trong cơ binh trên trời, và ở giữa cư dân trên đất; chẳng ai có thể cản tay Ngài và hỏi rằng: Ngài làm chi vậy?” (Đa-ni-ên 4:35).
Bây giờ chúng ta nói về ý muốn của Sa-tan là tạo vật mạnh mẽ nhất mà Đức Giê-hô-va từng tạo ra. Sa-tan là kẻ thù của Đức Chúa Trời, và mạnh hơn nhiều so với con người (có thể gọi Satan là sức mạnh hạng hai). Dĩ nhiên Sa-tan kém quyền năng hơn nhiều so với Đức Chúa Trời. Điều này được thể hiện qua việc Đức Giê-hô-va đặt ra những giới hạn nghiêm ngặt đối với những gì Ngài cho phép Sa-tan làm. Câu chuyện về Gióp đưa ra một số ví dụ về các ranh giới do Chúa thiết lập mà Sa-tan không thể vượt qua khi nó bức hại Gióp. Vì vậy, dù Sa-tan có thể mạnh hơn cả các thiên sứ khác, nhưng nó không toàn năng, toàn tri hay toàn tại như Đức Giê-hô-va.
Con người là một sức mạnh hạng ba. Con người tự nhiên không thể chống lại Sa-tan vì về tổng thể Sa-tan có nhiều điểm vượt trội hơn. Phao-lô nói rằng những người không được tái sinh, bị ma quỉ bắt lấy có thể là những người chống đối các tôi tớ của Đức Chúa Trời, cho dù họ có mặt trong hội chúng.
“Vả, tôi tớ của Chúa không nên ưa sự tranh cạnh; nhưng phải ở tử tế với mọi người, có tài dạy dỗ, nhịn nhục, dùng cách mềm mại mà sửa dạy những kẻ chống trả, mong rằng Đức Chúa Trời ban cho họ sự ăn năn để nhìn biết lẽ thật, và họ tỉnh ngộ mà gỡ mình khỏi lưới ma quỉ, vì đã bị ma quỉ bắt lấy đặng làm theo ý nó” (2 Ti-mô-thê 2:24-26).
Làm thế nào Sa-tan có thể gài bẫy con người thiên nhiên đi theo ý muốn của nó? Lý do đơn giản là con người (một sức mạnh hạng ba), không có Chúa Thánh Linh thì không thể chống lại tạo vật mạnh mẽ nhất mà Chúa từng tạo ra! Đây là lý do tại sao những người đang “chết vì vi phạm và tội lỗi” bị Sa-tan điều khiển, bị ma quỉ bắt lấy để làm theo ý nó.
Phao-lô giải thích thêm:
“Còn anh em đã chết vì lầm lỗi và tội ác mình, đều là những sự anh em xưa đã học đòi, theo thói quen đời nầy, vâng phục vua cầm quyền chốn không trung, tức là thần hiện đương hành động trong các con bạn nghịch. Chúng ta hết thảy cũng đều ở trong số ấy, trước kia sống theo tư dục xác thịt mình” (Ê-phê-sô 2:2).
Các “con bạn nghịch” được ma quỉ sai khiến. Chúng làm theo ý muốn của Sa-tan vì chúng là con cái của cơn thịnh nộ và bị Đức Chúa Trời lên án. Những người này bị “vua cầm quyền chốn không trung” lôi kéo, và họ không thể kháng cự, trừ khi Đức Chúa Trời ban cho họ ân điển sự sống, giải cứu họ khỏi quyền lực quỉ vương.
Những người không được tuyển chọn không bao giờ được coi là đối tượng của tình yêu cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Chỉ những người được chọn, những người mà Chúa Cha muốn ban cho Con của Ngài như một cô dâu, mới được gọi là “con yêu dấu của Chúa.”
Tôi sẽ không làm bạn mệt mỏi khi chỉ ra rằng tình yêu thương của Ngài không dựa trên một tình trạng “tốt” tưởng tượng nào đó trong chúng ta. Phao-lô nói rằng Đức Chúa Trời yêu thương chúng ta khi chúng ta vẫn còn “chết trong tội lỗi”. Chúng ta không được cứu bởi vì Ngài biết trước một công việc tốt lành nào đó của đức tin là kết quả từ thiện chí tích cực của chúng ta đối với Chúa Giê-su. Không, điều đó sẽ khiến Đức Chúa Trời mắc nợ con người tội lỗi. Phao-lô nói rằng tất cả là ân điển. Ha-lê-lu-gia!
“Nhưng Đức Chúa Trời, là Đấng giàu lòng thương xót, vì cớ lòng yêu thương lớn Ngài đem mà yêu chúng ta, nên đang khi chúng ta chết vì tội mình, thì Ngài làm cho chúng ta sống với Đấng Christ – ấy là nhờ ân điển mà anh em được cứu” (Ê-phê-sô 2:4-5).
Khi người Arminian tuyên bố rằng ân điển của Đức Chúa Trời muốn tất cả mọi người được cứu, có thể bị chống lại và từ chối. Họ đang nói rằng Đức Giê-hô-va không phải là Đấng toàn năng. Họ đang tuyên bố rằng con người, một sức mạnh hạng ba, dưới sự chi phối của một quyền lực hạng hai cao hơn là Sa-tan, thì con người có ý chí mạnh mẽ đến nỗi có thể phá vỡ quyền lực cao hơn của Sa-tan để chọn lựa cho mình con đường cứu rỗi.
Có thể nào Cha thiên thượng dễ dãi và cho phép các đối tượng của địa ngục vào thiên đàng nếu họ muốn? Hay con người hữu hạn có thể chống lại quyền năng hạng nhất của Đức Giê-hô-va? Lúc đó con người với quyền lực hạng ba, vĩ đại hơn Đức Chúa Trời? Không thể tin được!
Con người tự nhiên không thể đến với Đấng Christ vì bị Sa-tan trói buộc. Mặc dù con người có ý chí tự do, nhưng ý chí đó bị ma quỷ trói buộc. Con người không có sức mạnh để chống lại Đức Chúa Trời nếu Đức Chúa Trời muốn cứu họ. Con người không chỉ là quyền lực hạng ba dưới quyền của Sa-tan, mà còn không thể cưỡng lại những thói hư tật xấu và những ham muốn của xác thịt! Con người cần được Đức Chúa Trời lôi kéo một cách không thể kháng cự lại được bằng ân điển của Ngài, nếu không như vậy con người sẽ không bao giờ tiến được một bước nào đến với Đấng Christ. Do đó lời của Chúa Giê-su dạy chúng ta trở nên rõ ràng:
“Ví bằng Cha, là Đấng sai ta, không kéo đến, thì chẳng có ai được đến cùng ta, và ta sẽ làm cho người đó sống lại nơi ngày sau rốt” (Giăng 6:44).
Một ví dụ rõ ràng về điều này là một nữ thương gia được Chúa mở lòng để nghe sứ đồ Phao-lô rao giảng.
“Có một người trong bọn đó nghe chúng ta, tên là Ly-đi, quê ở thành Thi-a-ti-rơ, làm nghề buôn hàng sắc tía, vẫn kính sợ Đức Chúa Trời. Chúa mở lòng cho người, đặng chăm chỉ nghe lời Phao-lô nói” (Công vụ 16:14).
Ai đã mở lòng Ly-đi để nghe Phao-lô giảng? Kinh Thánh có dạy rằng tội nhân mở lòng với Chúa không, hay Kinh Thánh dạy rằng chính Chúa là Đấng mở lòng tội nhân?
Con người thiên nhiên hoàn toàn sa ngã, không có khuynh hướng chăm về điều thiện. Anh ta chưa bao giờ có một phẩm hạnh hay công đức nào của bản thân để xứng đáng được cứu rỗi. Do đó anh ta cần được tuyển chọn một cách vô điều kiện để trở thành người nhận món quà của sự sống và đức tin. Chúa Giê-su đã không chết cho tất cả mọi người, nhưng chỉ cho những người được Chúa Cha tự do chọn lựa từ mọi quốc gia và bộ tộc trên mặt đất. Cái chết của Đấng Christ và huyết quý báu của Ngài được thiết kế đặc biệt dành cho những người mà Đức Chúa Trời đã xác định là phải đến với Con yêu dấu của Ngài trong đức tin nhờ ân điển không thể cưỡng lại của Ngài, qua món quà sự sống của Đức Thánh Linh.
Sự kiên trì của các thánh đồ.
Những người Arminian đã dạy rằng một người được cứu có thể “rơi khỏi ân sủng”, do đó đánh mất sự cứu rỗi mà anh ta đã từng nhận được. Vì hành động đức tin là ý muốn của con người để được cứu rỗi, nên lý do là nếu anh ta không tiếp tục trong đức tin, hoặc phạm một số tội đáng bị lên án, thì xem như anh ta từ chối Đức Chúa Trời và quay trở lại với chủ cũ của mình. Tất nhiên, đó là hệ quả hợp lý duy nhất có thể đạt được nếu một người nắm vững bốn điểm đầu tiên của thuyết Arminianism, và những học trò xuất sắc của Arminius biết điều đó.
Những người theo thuyết Calvinism đã dạy rằng các thánh đồ, còn được gọi là những người được chọn, không bao giờ có thể bị hư mất, vì sự cứu rỗi của họ là do ý muốn của Đức Chúa Trời toàn năng. Ý muốn này không thay đổi. Vì không có phẩm hạnh hay công đức nào trong con người quyết định việc anh ta được chọn, bởi vì Kinh Thánh dạy về sự lựa chọn vô điều kiện, nên lý do là anh ta không thể làm gì để khiến mình không còn được cứu, một khi anh ta đã được cứu bởi ân điển của Đức Chúa Trời. Đây là lý do chắc chắn của người theo thuyết Calvinism. Nếu bởi ý muốn của Chúa, tôi được cứu, và vì Ngài không thay đổi, nên tôi tiếp tục sự cứu rỗi của mình và bước vào thiên đàng.
“Ấy chính Ngài theo ý muốn mình, đã dùng lời chân thật sanh chúng ta, hầu cho chúng ta được nên như trái đầu mùa của những vật Ngài dựng nên.” (Gia-cơ 1:18).
Ở đây chúng ta có hai quan điểm hoàn toàn đối lập nhau. Một là luận điểm dựa trên lý luận của tâm trí xác thịt vốn luôn thù địch với Đức Chúa Trời, và điều kia là lẽ thật trên nền tảng Kinh Thánh. Vì vậy, chúng ta hãy xem Kinh Thánh nói gì. Phao-lô tiếp tục chủ đề quan trọng này bằng cách xác nhận với các tín hữu tại Phi-líp:
“Hãy tin chắc rằng Đấng đã khởi làm việc lành trong anh em, sẽ làm trọn việc đó cho đến ngày của Đức Chúa Giê-su Christ” (Phi-líp 1:6).
Đức Chúa Trời là tác giả của “việc lành” mà Ngài đã bắt đầu trong chúng ta. Ngài sẽ tiếp tục thực hiện nó cho đến “ngày của Chúa Giê-su” là lúc chúng ta nhận được thân thể phục sinh. Một lần nữa, “việc lành” đó cũng là công việc của Ngài chứ không phải của chúng ta!
Phao-lô cũng giải thích thêm cho các tín hữu tại Phi-líp:
“Nhưng chúng ta là công dân trên trời; ấy là từ nơi đó mà chúng ta trông đợi Cứu Chúa mình là Đức Chúa Giê-su Christ, Ngài sẽ biến hóa thân thể hèn mạt chúng ta ra giống như thân thể vinh hiển Ngài, y theo quyền phép Ngài có để phục muôn vật” (Phi-líp 3:20-21).
Hãy lưu ý rằng Chúa Cha đã trao “mọi quyền năng” cho ai để “Ngài có thể khuất phục muôn vật”. Đó là Đấng Christ -Vua sắp đến của chúng ta! Đó là Vua vinh hiển, và Chúa Giê-su xác nhận:
“Nhân quyền phép Cha đã ban cho Con cai trị loài xác thịt, Con được ban sự sống đời đời cho những kẻ mà Cha đã giao phó cho Con” (Giăng 17:2).
Ai được ban cho sự sống đời đời? Con của Đức Chúa Trời đã phán dạy rõ ràng:
“Vả, ý muốn của Đấng đã sai ta đến, là hễ sự gì Ngài đã ban cho ta, thì ta chớ làm mất, nhưng ta phải làm cho sống lại nơi ngày sau rốt. Đây là ý muốn của Cha ta, phàm ai nhìn Con và tin Con, thì được sự sống đời đời; còn ta, ta sẽ làm cho kẻ ấy sống lại nơi ngày sau rốt” (Giăng 6:39-40).
Kinh Thánh của bạn nói gì? Có phải là những gì Cha đã ban cho Con sẽ bị hư mất? Vì sự cứu rỗi đến từ Chúa, hiển nhiên là một khi chúng ta được cứu bởi quyền năng của Đức Chúa Trời thì chúng ta luôn luôn được cứu. Bởi vì sự cứu rỗi là nhờ ân điển của Đức Chúa Trời chứ không phải đến từ con người! Hãy lưu ý những lời của Đức Chúa Con:
“Ta ban cho chiên của ta sự sống đời đời; nó chẳng chết mất bao giờ, và chẳng ai cướp nó khỏi tay ta” (Giăng 10:28).
Sự cứu rỗi mà Đức Chúa Trời ban cho chiên của Ngài kéo dài được bao lâu? Liệu những con chiên được chọn của Đấng Chăn Nhân Lành có bao giờ bị hư mất không? Chúng ta nghe lời ai? Của con người hay của Chúa? Tại sao một số người lấy những đoạn Kinh Thánh không rõ ràng để cố gắng vô hiệu hóa những đoạn rất rõ ràng? Có thể là vì họ không được cứu rỗi bởi ân điển của Đức Chúa Trời, nhưng sẽ được cứu bởi công việc đức tin của chính họ hoặc họ không có gì cả? Câu trả lời thuộc về bạn.
Chúng ta đọc thêm lời dạy của Phi-e-rơ, khi ông được Đức Thánh Linh thần cảm, ông đã viết rằng những người được chọn đều được định sẵn để tiếp quản một “cơ nghiệp không hư đi, không ô uế, không suy tàn, để dành trong các từng trời cho anh em, là kẻ bởi đức tin nhờ quyền phép của Đức Chúa Trời giữ cho, để được sự cứu rỗi gần hiện ra trong kỳ sau rốt!” (1 Phi-e-rơ 1:4-5).
Còn Phao-lô xác nhận: “Vì biết ta đã tin Đấng nào, chắc rằng Đấng ấy có quyền phép giữ sự ta đã phó thác cho đến ngày đó” (2 Ti-mô-thê 1:12; đối chiếu Giăng 17:11).
Chúng ta được tuyển chọn để vào thiên đàng vì Chúa đã làm như vậy. Đây là lý do tại sao Phao-lô khích lệ tín hữu Tê-sa-lô-ni-ca yên tâm:
“Ấy cũng là vì đó mà Ngài đã dùng Tin lành chúng tôi gọi anh em, đặng anh em hưởng được sự vinh hiển của Đức Chúa Giê-su Christ chúng ta.” (2 Tê-sa-lô-ni-ca 2:14).
Thiên đàng là nhà của chúng ta. Vinh hiển của nơi ở trên trời là cơ nghiệp của chúng ta vì Đức Chúa Trời đã muốn như vậy. Tất cả là bởi ân điển của Ngài!
Các lời dạy của Phao-lô trong Tân Ước rất rõ ràng:
“Ấy cũng là trong Ngài mà chúng ta đã nên kẻ dự phần kế nghiệp, như đã định trước cho chúng ta được điều đó, theo mạng của Đấng làm mọi sự hiệp với ý quyết đoán” (Ê-phê-sô 1:11).
“Vậy thì làm sao? Ấy là dân Y-sơ-ra-ên chẳng được điều mình tìm; song những kẻ lựa chọn thì đã được, và những kẻ khác thì bị cứng lòng” (Rô-ma 11:7).
“Vừa lúc ban ầu, Ngài đã chọn anh em bởi sự nên thánh của Thánh Linh, và bởi tin lẽ thật, đặng ban sự cứu rỗi cho anh em.” (2 Tê-sa-lô-ni-ca 2:13).
Phao-lô biết rằng Đấng toàn năng đã biến đổi ông thành đối tượng của tình yêu vĩnh cửu, nên ông có thể mạnh dạn nói:
“Chúa sẽ giải cứu ta khỏi mọi việc ác, và sẽ đưa ta vào vương quốc trên trời của Ngài” (2 Ti-mô-thê 4:18).
Giu-đe viết thư cho những người được Chúa kêu gọi (được Chúa chọn):
“Giu-đe, tôi tớ của Đức Chúa Giê-su Christ và em Gia-cơ, đạt cho những kẻ đã được kêu gọi, được Đức Chúa Trời, là Cha, yêu thương, và được Đức Chúa Giê-su Christ giữ gìn” (Giu-đe 1).
Phao-lô cầu nguyện cho các thánh đồ được chọn tại Tê-sa-lô-ni-ca:
“Nguyền xin chính Đức Chúa Trời bình an khiến anh em nên thánh trọn vẹn, và nguyền xin tâm thần, linh hồn, và thân thể của anh em đều được giữ vẹn, không chỗ trách được, khi Đức Chúa Giê-su Christ chúng ta đến! Đấng đã gọi anh em là thành tín, chính Ngài sẽ làm việc đó” (1 Tê-sa-lô-ni-ca 5:23-24).
Ai là người bảo vệ chúng ta “không chỗ trách được” cho đến khi Giê-su đến? Ai sẽ làm công việc thánh hóa và gìn giữ kỳ diệu này? Chúng ta cũng không chỉ được Chúa gìn giữ trong từng phần bản thể con người, nhưng là cả tâm thần, linh hồn và thân thể. Ha-lê-lu-gia!
Giu-đe cầu nguyện cho những người được Chúa kêu gọi ở cuối bức thư của ông:
“Vả, nguyền Đấng có thể gìn giữ anh em khỏi vấp phạm và khiến anh em đứng trước mặt vinh hiển mình cách rất vui mừng, không chỗ trách được, là Đức Chúa Trời có một, là Cứu Chúa chúng ta, bởi Đức Chúa Giê-su Christ là Chúa chúng ta, được sự vinh hiển, tôn trọng, thế lực, quyền năng thuộc về Ngài từ trước vô cùng và hiện nay cho đến đời đời! A-men” (Giu-đe 24-25).
Các thánh đồ sẽ kiên trì trong đức tin vì Đấng Cứu Rỗi tuyên bố rằng Ngài sẽ gìn giữ họ. Nếu sự kiên trì đức tin phụ thuộc vào con người hay thay đổi với bản chất tội lỗi sa ngã, con người sẽ vô vọng. Sự kiên trì của các thánh đồ phụ thuộc vào ân điển không thể cưỡng lại được ban cho họ. Chúa Giê-su đã chết thay cho chúng ta, huyết của Ngài đổ ra chỉ dành cho những người được chọn. Sự lựa chọn đó, ngợi khen Chúa, không dựa trên một số công đức tốt lành nào ở trong chúng ta. Nhờ ân điển của Chúa, đó là một sự tuyển chọn vô điều kiện. Con người thiên nhiên hoàn toàn sa ngã, không có khả năng đến với Chúa, hoàn toàn bất năng trước quyền lực của Sa-tan.
Khi tìm hiểu về Năm Điểm của Armianism và Năm Điểm của Calvinism, dưới ánh sáng của Kinh Thánh, tôi đã bị Arminianism thuyết phục cách đây không lâu. Tôi được tái sinh bởi ý muốn và ân điển của Đức Chúa Trời tại một nhà thờ Giám lý. Sau này tôi trở thành mục sư Giám Lý. Khi tôi tìm kiếm những thông điệp giải thích các lẽ thật cho các thành viên trong hội thánh, tôi đã nghiên cứu ý nghĩa của mọi từ khóa trong tiếng Hy Lạp và tiếng Do Thái. Kết quả là chẳng bao lâu sau tôi nhận thấy quan điểm giáo lý của giáo phái của tôi không phù hợp với quan điểm của Kinh Thánh. Cuối cùng tôi lịch sự từ chức. Tôi không có ác cảm với nhà thờ, hay với các Giám mục lãnh đạo, vì tôi luôn được ưu ái trong suốt chín năm phục vụ. Tôi chỉ đơn giản cảm thấy rằng việc giảng dạy lẽ thật từ Kinh Thánh trái ngược với tổ chức tôi đang phục vụ là không phù hợp. Cuộc xuất hành của tôi diễn ra êm ả đến nỗi vị Giám mục đã trả lại giấy tờ thụ phong cho tôi với những lời khen ngợi vì đã trung thành phục vụ, và tôi lên đường thực hiện cuộc phiêu lưu thú vị nhất bởi đức tin mà tôi đã có cho đến lúc đó.
Tôi tiếp tục nghiên cứu Kinh Thánh, say mê đọc các tác phẩm tham khảo và đọc hết tập này đến tập khác về lịch sử giáo hội, đặc biệt là lịch sử của Tin lành Cải Chánh.
Tôi bắt đầu thấy hố sâu ngăn cách giữa thần học hiện đại và Lời Chúa. Khoảng cách lớn này đã được Đức Thánh Linh cho tôi thấy rõ ràng nhất trong lòng, khi tôi bắt đầu phân tích sự khác biệt giữa thuyết Arminianism thuyết Calvinism. Giống như nhiều mục sư và tín hữu, tôi đã nghe cả hai phía sử dụng những thuật ngữ xấu xa để lên án những người có quan điểm trái ngược, nhưng tôi chưa bao giờ thực sự biết họ tin vào điều gì. Cuốn sách nhỏ này là kết quả của việc tìm kiếm trong Kinh Thánh để “xem những lời giảng này có đúng như vậy không”. Nó không được viết ra với mong muốn gây mâu thuẫn với thuyết Arminianism, hay để chứng tỏ rằng các học thuyết của những người cải chánh (được gọi là thuyết Calvinism), gần với Kinh Thánh hơn bất kỳ hệ thống thần học nào khác mà tôi biết.
Tôi đã biết rằng người nào đảm nhận vị trí dạy giáo lý của các nhà cải chánh sẽ trở thành đối tượng chế nhạo của những người có thần học dựa trên cảm xúc, truyền thống giáo phái, học thuyết, và lý luận của con người. Nhưng tôi không thể làm gì khác hơn là đi theo lẽ thật Chúa đã bày tỏ cho tôi. Lời dạy của Đấng Christ và các sứ đồ đã thuyết phục tôi.
Tuy nhiên, ngay cả khi tôi xác nhận rằng học thuyết Calvin phù hợp với Kinh Thánh, tôi khiêm tốn nhận ra rằng cách đây không lâu, tôi đã từng bị Arminian thuyết phục. Do đó, tôi không lên án những người không đồng ý với quan điểm hiện tại của tôi. Tôi chỉ cầu xin Chúa Thánh Linh soi sáng cho mỗi người sẽ để chúng ta có thể yêu thương nhau bằng tình yêu Agape, bất luận chúng ta đứng về phía nào.
Có lẽ những phát biểu của Charles Haddon Spurgeon có thể diễn đạt rõ nhất cảm xúc của tôi trong quyển sách TULIP này.
“Chúng tôi tin vào năm điểm quan trọng của thuyết Calvin; nhưng chúng tôi không coi năm điểm này là những cái trục có gai mà chúng sẽ đâm vào xương sườn của những người theo đạo Cơ đốc. Chúng tôi coi chúng như năm ngọn đèn lớn giúp ích để chiếu sáng thập tự giá; hay nói đúng hơn là năm tia sáng phát ra từ giao ước vinh quang của Đức Chúa Trời ba ngôi hiệp một của chúng ta, và minh họa cho giáo lý vĩ đại về Chúa Giê-su chịu đóng đinh.”
Một nhà thơ đã viết:
Tôi đã tìm kiếm Chúa, và sau đó tôi biết
Ngài khiến linh hồn tôi tìm kiếm Ngài
Thực ra Ngài tìm kiếm tôi
Không phải tôi đã tìm thấy Cứu Chúa
Không, tôi đã được Ngài tìm thấy.
Chúa đưa tay ra và tôi được bao phủ
Con tàu tôi lướt sóng, không bị nhấn chìm trong bão biển
Tôi tìm thấy ánh sáng, tôi bước đi, tôi yêu thương…
Chỉ duy nhờ ân điển Chúa
Vì Chúa đã đi trước dẫn dắt tôi
Ngài luôn yêu thương tôi
Anon.
Các Trích Dẫn từ Bản Tuyên Xưng Đức Tin của Westminster 1648.
Sau đây là các phần riêng biệt – không theo thứ tự trong Bản Tín Điều Westminster.
CHƯƠNG III
Mục Đích Đời Đời của Đức Chúa Trời
I Từ buổi ban đầu cho đến cuối cùng Đức Chúa Trời đã thiết lập các qui luật của Ngài. Chúng bất biến và không thay đổi. Đức Chúa Trời không phải là tác giả của điều ác, bạo lực hay tội lỗi. Các tạo vật có thể tự do làm một số kế hoạch, nhưng các kế hoạch này không thoát khỏi sự kiểm soát toàn diện của Đức Chúa Trời toàn năng và toàn tri.
II Đức Chúa Trời thấy và biết trước mọi tiến trình, mọi tình huống xảy ra trong toàn bộ vũ trụ mà Ngài đã tạo nên. Không một đối tượng nào có thể viết lại lịch sử của Ngài.
III Theo ý định đời đời của Đức Chúa Trời, để biểu lộ vinh quang của Ngài, một số người và thiên sứ đã được tiền định cho cuộc sống vĩnh cửu; và những người khác đã được định trước cho cái chết vĩnh viễn.
IV Những thiên sứ và những người đã được chọn trước trong kế hoạch đời đời của Đức Chúa Trời được thiết kế đặc biệt và không thể thay đổi, và số lượng của họ chắc chắn và xác định đến mức không thể tăng lên hoặc giảm đi.
V Trước khi sáng thế Đức Chúa Trời đã chọn trước một số người để ban cho họ sự sống và sự sống đời đời. Đây là ân điển vô điều kiện của Ngài. Không có bất kỳ một công đức hay phẩm hạnh nào của con người khiến cho Chúa tuyển chọn họ vào trong nước thiên đàng. Tất cả đều qui về ân điển của Đức Chúa Trời để tôn vinh Ngài.
VI Như đã được lập trình từ trước, Đức Chúa Trời đã chọn một số người nhất định để bước vào trong vinh hiển đời đời với Ngài. Vì vậy Ngài đã chuẩn bị tất cả các phương tiện để hoàn thành điều đó. Đức Thánh Linh thuyết phục, cáo trách những người được chọn, và họ chỉ có thể đến với Chúa Giê-su để tiếp nhận địa vị làm con, họ được thánh hóa, được Chúa nuôi dưỡng và gìn giữ trong đức tin cho đến ngày nhận lãnh cơ nghiệp vinh hiển trên trời.
VII Phần còn lại của nhân loại, Đức Chúa Trời có thể mở rộng hoặc giữ lại lòng thương xót tùy theo ý tốt của Ngài. Các đối tượng hứng chịu cơn thạnh nộ và sỉ nhục vì tội lỗi của họ theo sự phán xét công minh của Đức Chúa Trời. Không ai có thể tự bào chữa cho mình trong ngày phán xét.
VIII Giáo lý về sự tiền định mầu nhiệm này phải được xử lý trong sự thận trọng. Những người được chọn được bảo đảm về ơn kêu gọi của Chúa dành cho họ. Học thuyết này sẽ khiến họ khiêm cung, ngưỡng mộ Chúa và tôn vinh Ngài hết lòng. Nó cũng an ủi cho những ai trung tín theo đuổi ánh sáng của Phúc âm.
CHƯƠNG V
Sự quan phòng (hay sự chăm sóc) của Đức Chúa Trời.
Cơ đốc nhân tin rằng Đức Chúa Trời trong sự quan phòng của Ngài giám sát thế giới này và đặc biệt là cuộc sống của con cái Ngài trong Đấng Christ. Rằng Ngài quan tâm đến các sự kiện hàng ngày của cuộc sống và không bỏ rơi những người được chọn của Ngài.
Về cơ bản, sự quan phòng có nghĩa là Chúa biết những gì đang xảy ra trong cuộc sống của bất kỳ người nào. Ngài kiểm soát mọi thứ diễn ra trong thế giới. Nhờ Thánh Linh, Ngài có thể hướng dẫn chúng ta, cảm động chúng ta, làm sáng tỏ mọi điều cho chúng ta và thúc đẩy chúng ta đưa ra quyết định về sự nghiệp tương lai, người bạn đời hoặc bất kỳ điều gì. Và tất cả những điều này bằng cách nào đó phục vụ các kế hoạch lớn hơn của Chúa. Nhiều thứ không chỉ “xảy ra” một cách ngẫu nhiên mà còn phục vụ một mục đích khác nào đó của Cha thiên thượng mà hiện tại chúng ta có thể chưa hiểu biết hết được.
I Đức Chúa Trời, Đấng Tạo Hóa vĩ đại của vạn vật, nâng đỡ, hướng dẫn, định đoạt và chi phối mọi tạo vật hoạt động, từ vật lớn nhất cho đến vật nhỏ nhất, bởi sự quan phòng thánh khiết và khôn ngoan của Ngài, theo sự biết trước không thể sai lầm của Ngài để ca ngợi vinh quang về sự khôn ngoan, quyền năng, công lý, lòng tốt và sự thương xót của Ngài.
II Mặc dù, liên quan đến sự biết trước và mục đích đời đời của Đức Chúa Trời, mọi thứ đều diễn ra một cách bất biến và không thể sai lầm; tuy nhiên, theo cùng một sự quan phòng, Ngài ra lệnh điều chỉnh mọi sự kiện theo ý muốn tốt lành của Ngài.
Ill Trong sự quan phòng thông thường của Đức Chúa Trời, Ngài sử dụng tất cả các phương tiện theo ý muốn Ngài. Các tạo vật có thể chống nghịch Ngài, nhưng không thể vượt quá giới hạn mà Ngài cho phép.
IV Quyền năng toàn năng, sự khôn ngoan và lòng nhân từ vô hạn của Đức Chúa Trời cho đến nay đều thể hiện trong sự quan phòng của Ngài. Trong lần sa ngã đầu tiên của thiên sứ và loài người, điều đó đến không phải là một sự cho phép, mà Đức Chúa Trời quản lý các sự kiện trong một sự phân bổ đa dạng, cho mục đích đời đời của Ngài. Như vậy, tội lỗi chỉ bắt nguồn từ tạo vật chứ không phải từ Chúa. Ngài không thể là tác giả hay người chấp thuận tội lỗi.
V Đức Chúa Trời khôn ngoan, công bình và nhân từ đôi khi trong một thời gian nào đó có thể trừng phạt con cái của Ngài vì những tội lỗi của họ, hoặc để huấn luyện họ nhìn thấy sự đồi bại và dối trá của họ, để họ có thể hạ mình xuống. Sau đó Ngài nâng họ đến một sự phụ thuộc gần gũi và liên tục để họ lệ thuộc vào chính Ngài, đồng thời khiến họ cảnh giác hơn trước những cám dỗ trong tương lai.
VI Đối với những kẻ gian ác, không tin kính, lòng mù quáng và chai đá thì Đức Chúa Trời, với tư cách là Quan tòa công bình, Ngài không chỉ giữ lại ân điển để nhờ đó họ có thể được soi sáng trong sự hiểu biết, nhưng đôi khi cũng rút lại những món quà mà họ đã có. Những đối tượng mà sự tha hóa của họ kéo theo các cơ hội phạm tội, họ phớt lờ những phương tiện mà Đức Chúa Trời sử dụng để làm mềm lòng người khác, và cuối cùng chiều theo dục vọng, những cám dỗ của thế gian, và quyền lực của Sa-tan. Họ sẽ bị phán xét theo công lý của Đức Chúa Trời
CHƯƠNG VII
Về Giao Ước của Chúa với Con Người.
Il Giao ước đầu tiên được Đức Chúa Trời thiết lập với con người là giao ước trong đó sự sống đã được hứa cho A-đam và các hậu tự của ông, với điều kiện phải vâng lời Chúa.
III Con người, do sự sa ngã của mình, khiến bản thân không thể sống theo giao ước đó, Chúa đã vui lòng lập giao ước thứ hai, thường được gọi là giao ước ân điển; trong đó Ngài ban cho tội nhân sự sống và sự cứu rỗi qua Chúa Giê-su Christ. Điều này đòi hỏi họ phải có đức tin nơi Ngài, để họ được cứu. Và Chúa cũng hứa ban cho tất cả những người được chọn Đức Thánh Linh, để khiến họ sẵn lòng vâng phục Ngài, trưởng thành trong đức tin và hiểu biết những điều thiêng liêng.
CHƯƠNG VIII
Chúa Giê-su Christ Đấng Trung Bảo.
I Trong mục đích vĩnh cửu của Cha thiên thượng, Ngài chọn Chúa Giê-su, Con độc sinh của Ngài, làm Đấng Trung Bảo giữa Đức Chúa Trời và loài người. Chúa Giê-su là Tiên Tri, Thầy Tế Lễ và Vua. Ngài là Đầu và Đấng Cứu Rỗi của Hội thánh Ngài. Ngài thừa kế của tất cả mọi thứ, và là Thẩm phán tối cao của thế giới. Những người mà Đức Cha đã ban cho Đấng Christ từ các dân tộc sẽ trở thành hạt giống của Ngài, được Ngài cứu chuộc, thánh hóa và nhận vinh hiển trong nước thiên đàng.
V Đức Chúa Giê-su, bởi sự vâng lời trọn vẹn của Ngài, và sự hy sinh của chính Ngài, đã hoàn toàn thỏa mãn sự công bình của Đức Cha, và phục hồi không chỉ sự hòa giải giữa Đức Chúa Trời và loài người, mà còn cả cơ nghiệp đời đời cho tất cả những ai Cha thiên thượng đã ban cho Ngài.
VIII Đối với tất cả những người mà Đấng Christ đã mua chuộc, Ngài cầu thay, mặc khải những điều mầu nhiệm trong ơn cứu rỗi thông qua Lời và Thánh Linh. Từ đó tín hữu có thể tin cậy và vâng lời Ngài. Ngài ban ơn để họ vượt qua tất cả kẻ thù bằng quyền năng và sự sống của Ngài. Đây chính là sự phân phát ân điển kỳ diệu và không dò lường được của Ngài cho tín nhân.
CHƯƠNG IX
Ý chí tự do
I Đức Chúa Trời đã ban ý chí tự do cho con người. Con người không bị ép buộc trong ý tưởng và các hành vi của mình.
II Con người, trong tình trạng vô tội ban đầu có tự do và quyền năng để muốn và làm điều đẹp lòng Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, điều này có thể thay đổi; con người có thể đánh mất đặc ân đó.
III Con người khi rơi vào tình trạng tội lỗi, đã hoàn toàn mất hết khả năng và ý chí đối với bất kỳ giá trị thuộc linh nào. Một con người tự nhiên, hoàn toàn xa lạ với điều thiện và chết trong tội lỗi, không thể tự chính mình thay đổi, hoặc chuẩn bị cho bản thân những điều kiện để thay đổi.
IV Khi Đức Chúa Trời hoán cải một tội nhân và đưa người ấy vào trong ân điển, Ngài giải thoát người ấy khỏi ách nô lệ của tội lỗi; và chỉ nhờ ân điển của Ngài, cho phép tín nhân tự do muốn làm các việc lành và trưởng thành trong đời sống thuộc linh; tuy nhiên tín nhân không phải là người hoàn hảo, cũng như không chỉ muốn điều tốt, mà đôi khi còn muốn điều xấu.
V Ý chí của con người được tự do hoàn toàn và không thay đổi để hướng thiện chỉ trong trạng thái vinh hiển ở cõi đời đời mà thôi.
CHƯƠNG X
Lời kêu gọi
I Đức Chúa Trời hài lòng với những ai đã được Ngài định sẵn cho sự sống, là những người được biệt riêng ra cho Đấng Christ. Nhờ Lời và Thánh Linh họ được kéo ra khỏi tình trạng tội lỗi và sự chết để đến với ân điển cứu rỗi, đến với Đấng Christ. Họ được soi sáng tâm trí để hiểu những điều thuộc về Đức Chúa Trời. Ngài cất đi tấm lòng chai đá và ban cho họ tấm lòng bằng thịt; Ngài thay đổi tư duy, đổi mới ý chí của họ. Tất cả là bởi ân điển Ngài.
II Sự kêu gọi có hiệu lực này chỉ do ân điển đặc biệt và miễn phí của Đức Chúa Trời, không phải do bất cứ điều gì đã thấy trước nơi con người. Con người hoàn toàn thụ động trong đó, cho đến khi được Đức Thánh Linh làm cho sống động và đổi mới, nhờ đó con người có thể đáp lại lời kêu gọi này và đón nhận ân điển được chuyển tải đến.
Bối cảnh lịch sử.
Một biểu đồ so sánh ở trang tiếp theo được thiết kế để sử dụng với cuốn sách TULIP. Tiêu đề của cuốn sách được lấy từ một chữ viết tắt được hình thành bởi các chữ cái đầu tiên từ Năm Điểm Của Thuyết Calvin, đó là: sự sa ngã hoàn toàn, sự tuyển chọn vô điều kiện, sự chuộc tội có giới hạn, ân điển không thể cưỡng lại và sự kiên trì của các thánh đồ.
Năm điểm hay giáo lý này đã được Hội đồng Dort xây dựng để trả lời cho một tài liệu có tên là Remonstrance (tạm dịch là Sự Phản Đối). Sự phản đối này được các đệ tử của một giáo sư chủng viện người Hà Lan (Jacob Hermann) có họ Latin là Arminius đệ trình lên Nghị viện của Hà Lan. Arminius (1560-1609) chỉ mới bốn tuổi khi John Calvin (1509-1564), nhà cải cách vĩ đại, qua đời. Mặc dù được nuôi dưỡng theo truyền thống cải cách, Arminius vẫn nghi ngờ nghiêm trọng về ân điển tối cao của Chúa. Vì lý do chủ quan ông đồng cảm với những lời dạy của Pelagius và Erasmus liên quan đến ý chí tự do của con người. Trong vòng một năm sau cái chết của Arminius, các đệ tử của ông đã trình bày những lời dạy của ông thành năm điểm chính. Họ trình bày trước Nghị viện Hà Lan năm điểm này với mong muốn rằng Bản tín điều Belgic và sách giáo lý Heidelberg vốn được giáo hội sử dụng trước đó được thay thế bằng những lời dạy từ Arminius là giáo sư của họ.
Hội đồng Dort được tổ chức vào năm 1618 với mục đích là xem xét năm điểm của Arminianism dưới ánh sáng của Kinh Thánh. 84 nhà thần học và 18 ủy viên bên ngoài nhà thờ đã được tập hợp trong 154 phiên họp kéo dài từ ngày 13 tháng 11 năm 1618 đến ngày 9 tháng 5 năm 1619. Sau khi xem xét kỹ lưỡng thuyết của Arminius, cẩn thận so sánh những lời dạy của ông với Thánh Kinh, hội đồng xác định rằng quan điểm của ông là dị giáo, không phù hợp với Kinh Thánh. Tuy nhiên, các thành viên của Hội đồng không dừng lại ở đó mà đã cẩn thận xây dựng các luận điểm bác bỏ năm điểm của Arminian được gọi là năm điểm của thuyết Calvin. Lịch sử tiết lộ rằng cả “thuyết Arminian” hay “thuyết Calvin” đều không mới. Pelagius, một người theo dị giáo ở thế kỷ thứ năm, phủ nhận bản chất con người bị tha hóa bởi tội lỗi. Ông dạy rằng con người sở hữu “ý chí tự do” tuyệt đối, nhờ đó có thể hoặc chọn hoặc từ chối Chúa. Ông trở thành đối thủ của nhà thần học trứ danh John Calvin.
Augustine, người nhấn mạnh Kinh Thánh dạy rằng con người đã chết trong những vi phạm tội lỗi và bị Satan trói buộc. Ý chí của con người, Augustine nói, không hề “tự do” chút nào.
Trong cuộc cải chánh Tin Lành, vấn đề này được tranh luận không ngớt. Erasmus, nhà nhân văn và thần học lỗi lạc của Giáo hội Rô-ma, đã viết một bài công kích, trong đó ông phản đối ân điển tối cao và biện hộ cho ý chí tự do của con người có thể tự quyết định tiếp nhận Đấng Christ hay không. Trong luận án Sự Trói Buộc Của Ý Chí, Martin Luther đã bác bỏ quan điểm này.
Thuyết Arminianism chỉ là một sự cải tiến của Pelagian và lý luận phức tạp của Erasmus. Sau đó được phổ biến rộng rãi bởi anh em nhà Wesley ở Anh với một tác động mạnh mẽ đến cộng đồng Cơ đốc. Nó đã đi vào thế kỷ XX như là cơ sở cho làn sóng truyền giáo hiện đại.
Có một biểu đồ so sánh ở trang sau để hỗ trợ sinh viên xác định các vấn đề thực sự đang bị đe dọa. Nó chỉ nêu những ý tưởng cơ bản về năm điểm của cả người Arminian và người theo thuyết Calvin, đồng thời liệt kê những câu Kinh Thánh được mỗi bên sử dụng để hỗ trợ cho quan điểm của mình, với một lời bình luận ngắn gọn.
Biểu Đồ So Sánh
Điểm 1
QUAN ĐIỂM CỦA ARMINIAN
Ý chí tự do
Sự sa ngã của con người. là kết quả của sự sụp đổ, không phải là toàn bộ mà là một phần. Con người không mất khả năng tự quyết, cũng như khả năng tự do muốn điều gì tốt đẹp trước mặt Chúa. Con người là tác giả của sự ăn năn và đức tin để được cứu rỗi. Vì ý chí con người được người Arminian coi là một trong những nguyên nhân của sự tái sinh, nếu con người tự nguyện hợp tác với Chúa Thánh Linh.
Giăng 3:16. Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời.
Công vụ 2:38. Phi-e-rơ trả lời rằng: Hãy hối cải, ai nấy phải nhân danh Đức Chúa Jêsus chịu phép báp-têm, để được tha tội mình, rồi sẽ được lãnh sự ban cho Đức Thánh Linh.
Công Vụ. 16:31. Hai người trả lời rằng: Hãy tin Đức Chúa Giê-su, thì ngươi và cả nhà đều sẽ được cứu rỗi.
Rô-ma 10:9. Vậy nếu miệng ngươi xưng Đức Chúa Giê-su ra và lòng ngươi tin rằng Đức Chúa Trời đã khiến Ngài từ kẻ chết sống lại, thì ngươi sẽ được cứu
I Giăng 3:23. Vả, nầy là điều răn của Ngài: là chúng ta phải tin đến danh Con Ngài, tức là Đức Chúa Giê-su Christ, và chúng ta phải yêu mến lẫn nhau như Ngài đã truyền dạy ta
Ý CHÍ TỰ DO HAY TRÁCH NHIỆM?
Nếu quan sát cẩn thận, chúng ta thấy rằng các phần Kinh Thánh do Arminian lựa chọn để ủng hộ “ý chí tự do” không đề cập đến chủ đề đó, mà đúng hơn là “trách nhiệm của con người trong việc tin vào Chúa và trách nhiệm giải trình của anh ta nếu không tin. Có hai lý do cho điều này: (1) Không có Kinh Thánh nào dạy rằng con người có ý chí tự do; và (2) Arminian lý luận (trái ngược với Kinh Thánh) rằng Đức Chúa Trời không có quyền buộc con người phải chịu trách nhiệm về việc tin, cũng như không lên án họ vì tội vô tín, nếu ý chí của anh ta không được tự do làm như vậy.
Điều này giống như nói rằng một người mắc chứng ăn cắp vặt không nên chịu trách nhiệm về hành vi ăn cắp, cũng như không bị trừng phạt khi phải làm như vậy, bởi vì anh ta không thể tự kiểm soát chính bản thân. Đây là ý tưởng sai khi nói rằng một kẻ cuồng tình dục không phải chịu trách nhiệm về tội hiếp dâm trẻ em (cũng không bị trừng phạt vì điều tương tự, bởi vì anh ta không thể kiểm soát bản thân.) Mỗi người trong chúng ta sẽ khai trình việc mình với Chúa; và những ai chối bỏ Lời Ngài sẽ bị trừng phạt đời đời trong Hồ Lửa.
Kinh Thánh dạy rằng có đủ ánh sáng chiếu ra cho tất cả mọi người, nếu họ có một khuynh hướng nhỏ nhất là đến với ánh sáng, họ sẽ được cứu. Thực tế là con người quá say mê tội lỗi, vô tín, và bị Sa-tan lôi kéo một cách không cưỡng lại được, đến nỗi họ yêu bóng tối và ghét ánh sáng (Giăng 1:9; 3:19; Rô-ma 1:18-20). Con người có trách nhiệm phải tuân theo Lời Chúa và phải chịu trách nhiệm khi từ chối Lời.
Sự sa ngã hoàn toàn
QUAN ĐIỂM CỦA CALVINIST
Sự tha hóa của con người, do hậu quả của sự sa ngã, là hoàn toàn. Con người không còn ý chí tự do vì bị Satan cầm buộc. Nó là kẻ bắt giữ con người theo ý muốn của nó. Tất cả mọi người bị Satan lôi kéo đã chết về mặt tâm linh trong những vi phạm và tội lỗi và buông thả linh hồn cho linh của sự chết một cách không thể cưỡng lại. Con người bị sa ngã theo nghĩa là anh ta đã chết, bị mù, điếc, không thể hiểu được những điều thiêng liêng của Đức Chúa Trời và bị Satan cai trị, bị ma quỉ dẫn dắt vào trong bóng tối.
TẤT CẢ NHÂN LOẠI ĐỀU SA NGÃ
Rô-ma 5:12. Cho nên, như bởi một người mà tội lỗi vào trong thế gian, lại bởi tội lỗi mà có sự chết, thì sự chết đã trải qua trên hết thảy mọi người như vậy, vì mọi người đều phạm tội
Giê-rê-mi 17:9. Lòng người ta là dối trá hơn mọi vật, và rất là xấu xa: ai có thể biết được?
Rô-ma 3:11. Chẳng có một người nào hiểu biết,
Chẳng có một người nào tìm kiếm Đức Chúa Trời.
Châm ngôn 20:9. Ai có thể nói: Ta đã luyện sạch lòng mình. Ta đã trong sạch tội ta rồi?
ĐƯỢC SINH RA VỚI MỘT TÂM LINH ĐÃ CHẾT
Thi Thiên 58:3. Kẻ ác bị sai lầm từ trong tử cung.
Chúng nó nói dối lầm lạc từ khi mới lọt lòng mẹ.
Thi Thiên 51:5. Kìa, tôi sanh ra trong sự gian ác,
Mẹ tôi đã hoài thai tôi trong tội lỗi.
Giăng 3:3. Đức Chúa Giê-su cất tiếng đáp rằng: Quả thật, quả thật, ta nói cùng ngươi, nếu một người chẳng sanh lại, thì không thể thấy được nước Đức Chúa Trời.
Sáng Thế Ký 8:21. Đức Giê-hô-va hưởng lấy mùi thơm và nghĩ thầm rằng: Ta chẳng vì loài người mà rủa sả đất nữa, vì tâm tánh loài người vẫn xấu xa từ khi còn tuổi trẻ; ta cũng sẽ chẳng hành các vật sống như ta đã làm.
Ê-phê-sô 5:8. Vả, lúc trước anh em đương còn tối tăm, nhưng bây giờ đã nên người sáng láng trong Chúa. Hãy bước đi như các con sáng láng;
BỊ TRÓI BUỘC ĐI THEO SATAN
2 Ti-mô-thê 2:25-26. (Con hãy) dùng cách mềm mại mà sửa dạy những kẻ chống trả, mong rằng Đức Chúa Trời ban cho họ sự ăn năn để nhìn biết lẽ thật, và họ tỉnh ngộ mà gỡ mình khỏi lưới ma quỉ, vì đã bị ma quỉ bắt lấy đặng làm theo ý nó.
Giăng 8:44. Các ngươi bởi cha mình, là ma quỉ, mà sanh ra; và các ngươi muốn làm nên sự ưa muốn của cha mình. Vừa lúc ban đầu nó đã là kẻ giết người, chẳng bền giữ được lẽ thật, vì không có lẽ thật trong nó đâu. Khi nó nói dối, thì nói theo tánh riêng mình, vì nó vốn là kẻ nói dối và là cha sự nói dối.
KHÔNG THỂ KHÁNG CỰ, BỊ SATAN LÔI KÉO
Giăng 3:19. Vả, sự đoán xét đó là như vầy: Sự sáng đã đến thế gian, mà người ta ưa sự tối tăm hơn sự sáng, vì việc làm của họ là xấu xa.
Ê-phê-sô 2:1-3. Còn anh em đã chết vì lầm lỗi và tội ác mình, đều là những sự anh em xưa đã học đòi, theo thói quen đời nầy, vâng phục vua cầm quyền chốn không trung, tức là thần hiện đương hành động trong các con bạn nghịch. Chúng ta hết thảy cũng đều ở trong số ấy, trước kia sống theo tư dục xác thịt mình, làm trọn các sự ham mê của xác thịt và ý tưởng chúng ta, tự nhiên làm con của sự thạnh nộ, cũng như mọi người khác.
CON NGƯỜI SA NGÃ KHÔNG THỂ TIẾP NHẬN CÁC BÀI HỌC THUỘC LINH
1 Cô-rinh-tô 2:14. Vả, người có tánh xác thịt không nhận được những sự thuộc về Thánh Linh của Đức Chúa Trời; bởi chưng người đó coi sự ấy như là sự rồ dại, và không có thể hiểu được, vì phải xem xét cách thiêng liêng.
Điểm 2
QUAN ĐIỂM CỦA ARMINIAN
Sự tuyển chọn có điều kiện.
Sự lựa chọn dựa trên việc làm tốt của con người về sự ăn năn và đức tin nơi Đấng Christ. Nếu điều này là đúng, thì sự lựa chọn dựa trên sự biết trước của Đức Chúa Trời về việc ai sẽ đáp lại lời đề nghị của phúc âm và tự nguyện thực hiện khả năng tự quyết của mình và được cứu. Công việc tốt của sự ăn năn và đức tin của con người phải đi trước sự tái sinh. Anh ta phải đưa ra quyết định cho Đấng Christ và để Chúa Giê-su ngự vào lòng mình, vì Đức Chúa Trời sẽ không vi phạm ý muốn của con người bằng cách ban sự sống hoặc mở rộng trái tim mà không có sự cho phép của con người.
Phi-e-rơ 1:2. những người được chọn, theo sự biết trước của Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Cha, và được nên thánh bởi Đức Thánh Linh, đặng vâng phục Đức Chúa Giê-su Christ.
Rô-ma 11:2. Đức Chúa Trời chẳng từng bỏ dân Ngài đã biết trước.
Châm Ngôn 3:5. Hãy hết lòng tin cậy Đức Giê-hô-va,
Chớ nương cậy nơi sự thông sáng của con.
Mác 1:15. Các ngươi hãy ăn năn và tin đạo Tin lành.
Mác 11:22. Hãy có đức tin đến Đức Chúa Trời.
Ma-thi-ơ 8:13. Theo như điều ngươi tin thì sẽ được thành vậy.
Giăng 5:24. Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, ai nghe lời ta mà tin Đấng đã sai ta, thì được sự sống đời đời, và không đến sự phán xét, song vượt khỏi sự chết mà đến sự sống.
AI HÀNH ĐỘNG TRƯỚC?
Arminian tin rằng ý chí của con người là một trong những nguyên nhân của sự tái sinh (cùng hợp tác với Chúa). Đây là lý do tại sao họ tin rằng sự tuyển chọn dựa trên sự biết trước của Đức Chúa Trời, Đấng đã thấy trước “những người sẽ tin” trong quá khứ vĩnh cửu. Biết trước những người sẵn lòng ăn năn tội lỗi của họ và quyết định đặt đức tin của họ nơi Đấng Christ, Đức Chúa Trời đã chọn họ để cứu rỗi. Điều này có nghĩa là sự ăn năn và đức tin là những việc làm tốt của con người nhờ đó con người thiết lập điều kiện để được cứu. Arminianism là một tôn giáo cậy vào việc làm – ít nhất là ở mức độ mà con người phải hoàn thành các công việc tốt của sự ăn năn và đức tin. Còn sự trợ giúp của Chúa Thánh Linh dành cho tất cả mọi người như nhau.
Người theo thuyết Calvin tin rằng chỉ có Chúa là nguyên nhân của sự tái sinh. Biết rằng không ai có thể hoặc sẽ thiết lập bất kỳ điều kiện nào có thể làm cơ sở cho sự lựa chọn của mình. Calvinist dựa vào Kinh Thánh tuyên bố rằng sự biết trước nằm trong mục đích của Đức Chúa Trời để chọn một số người được cứu rỗi mà không đòi hỏi họ phải làm việc lành trước rồi mới được cứu. Mọi công việc liên quan đến sự cứu rỗi đều là công việc của Đức Chúa Trời, vì chỉ một mình Ngài mới có thể tái sinh, mở mắt người mù, mở tai người điếc, khơi dậy niềm tin vào Đấng Christ, soi sáng những ngóc ngách tối tăm trong lòng con người và ban cho sự ăn năn tội lỗi, bằng cách thiết lập ước muốn đúng đắn trong tấm lòng họ. Thuyết Calvin hoàn toàn không phải là một tôn giáo cậy việc làm. “Vả, ấy là nhờ ân điển, bởi đức tin, mà anh em được cứu, điều đó không phải đến từ anh em, bèn là sự ban cho của Đức Chúa Trời. Ấy chẳng phải bởi việc làm đâu, hầu cho không ai khoe mình” (Ê-phê-sô 2:8-9). Người Calvinist muốn dâng lên Đức Chúa Trời mọi vinh hiển về mọi điều tốt lành.
Sự tuyển chọn vô điều kiện
QUAN ĐIỂM CALVINIST
Sự lựa chọn hoàn toàn dựa trên ý muốn tự do của Đức Chúa Trời và mục đích của Ngài dành cho những người mà Ngài đã chọn trong Chúa Giê-su Christ trước khi sáng thế. Sự biết trước của Ngài dựa trên mục đích của Ngài, vì mục đích của Ngài là sự thể hiện ý chí tối hậu của Ngài. Vì con người không có khả năng tự ban cho mình sự sống, tự mở mắt hoặc tự dạy mình lẽ thật thuộc linh, nên Đức Chúa Trời phải chủ động thực hiện ơn cứu rỗi. Do đó, công việc tái sinh của Đức Chúa Trời phải đi trước đức tin và sự ăn năn. Ngài phải “mở lòng” và khiến những người được chọn của Ngài “muốn và làm” điều đẹp lòng Ngài, nếu không như vậy thì sẽ không có ai tin.
ĐỨC CHÚA TRỜI CHỌN CHỨ KHÔNG PHẢI CON NGƯỜI
Giăng 15:16. Ấy chẳng phải các ngươi đã chọn ta, bèn là ta đã chọn và lập các ngươi, để các ngươi đi và kết quả, hầu cho trái các ngươi thường đậu luôn: Lại cũng cho mọi điều các ngươi sẽ nhân danh ta cầu xin Cha, thì Ngài ban cho các ngươi.
Công vụ. 13:48. Những người ngoại nghe lời đó thì vui mừng, ngợi khen đạo Chúa, và phàm những kẻ đã được định sẵn cho sự sống đời đời, đều tin theo.
Thi thiên 65:4. Phước thay cho người mà Chúa đã chọn và khiến đến gần,
Đặng ở nơi hành lang Chúa. Chúng tôi sẽ được no nê vật tốt lành của nhà Chúa.
Phi-líp 2:13. Vì ấy chính Đức Chúa Trời cảm động lòng anh em vừa muốn vừa làm theo ý tốt Ngài.
SỰ TUYỂN CHỌN DỰA THEO MỤC ĐÍCH (KẾ HOẠCH) CỦA CHÚA
Ê-phê-sô 1:11. Ấy cũng là trong Ngài mà chúng ta đã nên kẻ dự phần kế nghiệp, như đã định trước cho chúng ta được điều đó, theo mạng của Đấng làm mọi sự hiệp với ý quyết đoán.
2 Ti-mô-thê 1:9. Ấy chính Chúa đã cứu chúng ta, đã gọi chúng ta bởi sự kêu gọi thánh, chẳng phải theo việc làm chúng ta, bèn là theo ý riêng Ngài chỉ định, theo ân điển đã ban cho chúng ta trong Đức Chúa Giê-su Christ từ trước muôn đời vô cùng.
SỰ BIẾT TRƯỚC DỰA VÀO Ý ĐỊNH CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI
Rô-ma 8:28. Vả, chúng ta biết rằng mọi sự hiệp lại làm ích cho kẻ yêu mến Đức Chúa Trời, tức là cho kẻ được gọi theo ý muốn Ngài đã định.
CON NGƯỜI KHÔNG CÓ KHẢ NĂNG QUYẾT ĐỊNH CHO SỰ CỨU RỖI, CHÚA PHẢI BẮT ĐẦU SỰ CỨU CHUỘC
Giăng 6:44. Ví bằng Cha, là Đấng sai ta, không kéo đến, thì chẳng có ai được đến cùng ta, và ta sẽ làm cho người đó sống lại nơi ngày sau rốt.
Ma-thi-ơ 11:27. Mọi việc Cha ta đã giao cho ta; ngoài Cha không có ai biết Con; ngoài Con và người nào mà Con muốn tỏ ra cùng, thì cũng không ai biết Cha.
Hê-bơ-rơ 12:2. Đức Chúa Jêsus, là cội rễ và cuối cùng của đức tin.
Công vụ. 16:14. Chúa mở lòng cho người, đặng chăm chỉ nghe lời Phao-lô nói.
Lu-ca 17:5. Các sứ đồ thưa Chúa rằng: Xin thêm đức tin cho chúng tôi!
Ý ĐỨC CHÚA TRỜI SẼ ĐƯỢC THÀNH TỰU
Ê-sai 55:11. thì lời nói của ta cũng vậy, đã ra từ miệng ta, thì chẳng trở về luống nhưng, mà chắc sẽ làm trọn điều ta muốn, thuận lợi công việc ta đã sai khiến nó.
Điểm 3
QUAN ĐIỂM ARMINIAN
Sự Chuộc Tội Phổ Quát
Sự chuộc tội là phổ quát, vì Chúa yêu thương tất cả mọi người một cách bình đẳng và như nhau. và Chúa Giê-su đã chết cho tất cả mọi người. Huyết của Chúa Giê-su đổ ra là cơ sở để mang lại sự tha thứ cho mọi người, nhưng nó không hoàn thành việc tha thứ trừ khi con người tự nguyện chấp nhận sự tha thứ. Sự chuộc tội là một thuật ngữ được sử dụng rộng rãi để bao gồm sự cứu chuộc, sự tha tội, sự làm lành, sự hòa giải và tất cả những điều khác được Đấng Christ hoàn thành trên thập tự giá. Người Arminian khẳng định rằng điều đó đã được thực hiện cho cả nhân loại một cách phổ quát.
Giăng 3:16. Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời.
2 Phi-e-rơ 3:9. Chúa… hằng nhịn nhục đối với chúng ta, không muốn một gười) nào bị hư mất, song muốn cho mọi người đều ăn năn.
Giăng 6:37. Phàm những kẻ Cha ban cho ta đều sẽ đến cùng ta; kẻ đến cùng ta, ta sẽ không bỏ ra ngoài đâu.
Giăng 1:29. Kìa là con chiên của Đức Chúa Trời, Đấng cất tội lỗi của thế gian.
Công Vụ. 10:43. Hết thảy các đấng tiên tri đều làm chứng nầy về Ngài rằng hễ ai tin Ngài thì được sự tha tội vì danh Ngài.
Giăng 1:12. Nhưng hễ ai đã nhận Ngài, thì Ngài ban cho quyền phép trở nên con cái Đức Chúa Trời, là ban cho những kẻ tin danh Ngài.
CHÚA MUỐN CỨU TẤT CẢ MỌI NGƯỜI!
Một trong những cách trình bày sai lầm phổ biến nhất về Đức Chúa Trời trong truyền giáo hiện nay là “Chúa yêu thương mọi người và muốn cứu rỗi mọi người.” Điều hiển nhiên đầu tiên về ngụy biện này là Kinh Thánh dạy rất rõ ràng rằng có nhiều người bị Chúa ghét! Ví dụ:
“Có lời chép rằng: Ta yêu Gia-cốp, nhưng ghét Ê-sau” (Rô-ma 9:13).
Tất cả những ai có kiến thức về Kinh Thánh đều biết rằng nếu Chúa yêu thương mọi người và thực sự muốn cứu tất cả, thì Ngài với tư cách là Đức Chúa Trời toàn năng mà không ai có thể chống lại sẽ làm điều đó. Thực tế là, như Kinh Thánh bày tỏ. Đức Chúa Trời không yêu thương tất cả mọi người như nhau, Ngài cũng không cứu tất cả mọi người.
Hãy tự hỏi mình những câu hỏi như “Ai là người sẽ không bị hư mất, trong Giăng 3:16 (Trả lời hễ ai tin nhận Ngài.) Câu hỏi tiếp theo: hễ ai gồm những ai?
Câu hỏi: Ai là đối tượng thực sự của tình yêu cứu rỗi của Đức Chúa Trời trong thế gian? Bởi vì chỉ một số người sẽ được cứu là những người được chọn của Đức Chúa Trời. Chắc chắn không phải tất cả mọi người!
Nếu bạn nghĩ đến 2 Phi-e-rơ 3:9 và cụm từ “chẳng muốn cho một người nào bị hư mất”, hãy tự hỏi: Phi-e-rơ đang viết thư cho ai? Nếu túc từ trong câu được hiểu là tín nhân thì ngữ pháp cho thấy rằng Phi-e-rơ đang nói rằng Đức Chúa Trời không muốn để bất kỳ người tin nào bị hư mất.
QUAN ĐIỂM CỦA CALVINIST
Sự chuộc tội có giới hạn.
Sự chuộc tội chỉ dành cho những người được chọn, vì Đấng Christ chỉ chết cho những người mà Cha đã ban cho Ngài làm Cô dâu của Ngài. Chỉ có các thánh đồ là những người được chọn mới được gọi là người được Chúa yêu. Vì chỉ một mình họ là đối tượng của ân điển cứu rỗi của Ngài. Những người theo thuyết Calvin cho rằng nếu Chúa Giê-su chết cho tất cả mọi người, thì tất cả sẽ được cứu. Còn nếu chỉ những người được chọn mới được cứu, thì Đấng Christ đã chết cho họ, và chỉ một mình họ mà thôi. Mặc dù rõ ràng là huyết của Đấng Christ chắc chắn đủ giá trị để chuộc tội cho tất cả mọi người, nhưng nó rõ ràng chỉ có hiệu quả đối với những người được cứu bởi ân điển vô điều kiện của Ngài.
CHÚA CHẾT CHỈ DÀNH CHO NHỮNG NGƯỜI ĐƯỢC CHỌN
Giăng 10:14-15. Ta là người chăn hiền lành, ta quen chiên ta, và chiên ta quen ta, cũng như Cha biết ta, và ta biết Cha vậy; ta vì chiên ta phó sự sống mình.
Rô-ma 5:8. Đức Chúa Trời yêu thương chúng ta, trong khi chúng ta còn là tội nhân. Đấng Christ đã chết vì chúng ta.’
Ga-la-ti 1:3-4. Nguyền xin anh em được ân điển và sự bình an ban cho bởi Đức Chúa Trời, là Cha, và bởi Đức Chúa Giê-su Christ, là Chúa chúng ta, là Đấng phó mình vì tội lỗi chúng ta, hầu cho cứu chúng ta khỏi đời ác nầy, y theo ý muốn Đức Chúa Trời, là Cha chúng ta.
Rô-ma 8:32. Ngài đã không tiếc chính Con mình, nhưng vì chúng ta hết thảy mà phó Con ấy cho, thì Ngài há chẳng cũng sẽ ban mọi sự luôn với Con ấy cho chúng ta sao?
Ê-phê-sô 5:25. Đấng Christ đã yêu Hội thánh, phó chính mình vì Hội thánh.
ĐẤNG CHRIST CHỈ CẦU NGUYỆN CHO NHỮNG NGƯỜI ĐƯỢC CHỌN
Giăng 17:9. Con vì họ mà cầu nguyện; chẳng phải vì thế gian mà cầu nguyện, nhưng vì kẻ Cha đã giao cho Con, bởi chưng họ thuộc về Cha.
NHƯ VẬY, CHỈ CÓ NGƯỜI ĐƯỢC CHỌN MỚI ĐƯỢC CỨU
Ma-thi-ơ 1:21. Người sẽ sanh một trai, ngươi khá đặt tên là Giê-su, vì chính con trai ấy sẽ cứu dân mình ra khỏi tội.
2 Phi-e-rơ 3:9. Chúa không chm trễ về lời hứa của Ngài như mấy người kia tưởng đâu, nhưng Ngài lấy lòng nhịn nhục đối với anh em, không muốn cho một người nào chết mất, song muốn cho mọi người đều ăn năn.
2 Tê-sa-lô-ni-ca 2:13. Hỡi anh em yêu dấu của Chúa, còn như chúng tôi, phải vì anh em tạ ơn Đức Chúa Trời không thôi, vì vừa lúc ban đầu, Ngài đã chọn anh em bởi sự nên thánh của Thánh Linh, và bởi tin lẽ thật, đặng ban sự cứu rỗi cho anh em.
CHỈ NGƯỜI ĐƯỢC CHỌN MỚI ĐƯỢC CHÚA YÊU
1 Tê-sa-lô-ni-ca 1:4. hỡi anh em được Đức Chúa Trời yêu dấu, chúng tôi biết anh em là kẻ được lựa chọn.
Côl 3:12. Vậy anh em là kẻ chọn lựa của Đức Chúa Trời, là người thánh và rất yêu dấu của Ngài, hãy có lòng thương xót. Hãy mặc lấy sự nhân từ, khiêm nhượng, mềm mại, nhịn nhục.
Điểm 4
Ân điển có thể bị cản trở
QUAN ĐIỂM CỦA NGƯỜI ARMINIAN
Ý muốn của Chúa là tất cả mọi người đều được cứu rỗi, nhưng ý muốn của Ngài có thể bị cưỡng lại vì mỗi người đều có khả năng tự quyết định. Vì Chúa yêu thương tất cả mọi người không phân biệt. Ngài thu hút họ bằng Đức Thánh Linh của Ngài, tìm cách lôi kéo họ đến với đức tin nơi Đấng Christ. Tiếng gọi khách quan của phúc âm đi kèm với ân điển phổ quát, nhưng nó sẽ không thể ép buộc đối với tất cả mọi người, mà có thể bị cản trở bởi “ý chí tự do” của con người.
Giăng 1:12. Nhưng hễ ai đã nhận Ngài, thì Ngài ban cho quyền phép trở nên con cái Đức Chúa Trời, là ban cho những kẻ tin danh Ngài.
Giăng 3:36. Ai tin Con, thì được sự sống đời đời; ai không chịu tin Con, thì chẳng thấy sự sống đâu, nhưng cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời vẫn ở trên người đó.
Giăng 3:18-21. Ai tin Ngài thì chẳng bị đoán xét đâu; ai không tin thì đã bị đoán xét rồi, vì không tin đến danh Con một Đức Chúa Trời. Vả, sự đoán xét đó là như vầy: Sự sáng đã đến thế gian, mà người ta ưa sự tối tăm hơn sự sáng, vì việc làm của họ là xấu xa. Bởi vì phàm ai làm ác thì ghét sự sáng và không đến cùng sự sáng, e rằng công việc của mình phải trách móc chăng. Nhưng kẻ nào làm theo lẽ thật thì đến cùng sự sáng, hầu cho các việc của mình được bày tỏ ra, vì đã làm trong Đức Chúa Trời.
Giăng 5:40. Các ngươi không muốn đến cùng ta để được sự sống!
Giăng 8:45. Nhưng vì ta nói lẽ thật, nên các ngươi không tin ta.
AI LÀ NGƯỜI “KHÔNG THỂ CẢN ĐƯỢC” VÀ TẠI SAO
Một trong những ý tưởng điên rồ rất thịnh hành giữa những người có tinh thần truyền giáo là những người hư mất đang khao khát được nghe phúc âm và khao khát những điều thuộc về Đức Chúa Trời! Bất cứ ai cho rằng mọi người đều háo hức tin vào Chúa Giê-su Christ cần phải được thông báo một sự thật rằng thế gian ghét Ngài và các sứ giả của Ngài. “Ví bằng người đời ghét các ngươi, thì hãy biết rằng họ đã ghét ta trước các ngươi. Nếu các ngươi thuộc về thế gian, thì người đời sẽ yêu kẻ thuộc về mình; nhưng vì các ngươi không thuộc về thế gian và ta đã lựa chọn các ngươi giữa thế gian, bởi cớ đó người đời ghét các ngươi” (Giăng 15:18-19).
Sa-tan là chúa của tất cả các tà linh, các thiên sứ và con người từ chối Đức Chúa Trời. “Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã.” Những ai thuộc về ma quỉ thì bị thu hút đến với Satan, mà không thể kháng cự được. Cùng một nguyên tắc như vậy, những người được Đức Chúa Trời tuyển chọn sẽ đến với Chúa Giê-su. Họ không thể trốn chạy được, vì Chúa ban cho họ ân điển không thể cưỡng lại.
Ân điển “không thể cưỡng lại được” khiến cho người được tuyển chọn bị thu hút đến với Chúa Giê-su, tin cậy Ngài, yêu mến Ngài. Giống như trong quá khứ họ đã từng bị Sa-tan thu hút, tin tưởng vào sự dối trá của quỉ vương. Cho đến khi Đức Chúa Trời tái sinh họ theo ý chỉ tuyệt đối của Ngài. “Là người chẳng phải sanh bởi khí huyết, hoặc bởi tình dục, hoặc bởi ý người, nhưng sanh bởi Đức Chúa Trời vậy” (Giăng 1:13). Lưu ý thứ tự trong câu này: Những người được sinh ra (1) không phải do khí huyết, (2) cũng không bởi tình dục, (3) cũng không theo ý của loài người, nhưng bởi Đức Chúa Trời.
Câu Kinh văn này bày tỏ rằng ý chỉ của Đức Chúa Trời quyết định việc thụ thai và sinh nở thuộc linh.
Ân điển không thể cưỡng lại
QUAN ĐIỂM CALVINIST
Vì ý muốn của Đức Chúa Trời là những người mà Ngài đã ban cho Con yêu dấu của Ngài trong quá khứ vĩnh cửu (từ trước vô cùng) sẽ được cứu, nên chắc chắn Ngài sẽ hành động trong ân điển tối cao theo cách mà những người được chọn thấy rằng không thể kháng cự trước lời mời gọi của Đấng Christ. Đây là ân điển không thể cưỡng lại được. Đức Chúa Trời không ép buộc những người được chọn tin cậy nơi Con Ngài. Ngài ban cho họ sự sống thuộc linh trước. Sự tái sinh là công việc của Đức Chúa Trời phải đi trước sự ăn năn và đức tin nơi Chúa. Cùng một nguyên tắc như vậy, những đời sống chết phần tâm linh thì không thể kháng cự trước sự lôi kéo của Satan.
Ý CHÚA KHÔNG AI CẢN ĐƯỢC
Đa-ni-ên 4:35. Hết thảy dân cư trên đất thảy đều cầm như là không có; Ngài làm theo ý mình trong cơ binh trên trời, và ở giữa cư dân trên đất; chẳng ai có thể cản tay Ngài và hỏi rằng: Ngài làm chi vậy?
Ê-sai 46:9-10. Hãy nhớ lại những sự ngày xưa; vì ta là Đức Chúa Trời, và chẳng có Chúa nào khác; ta là Đức Chúa Trời, chẳng có ai giống như ta. Ta đã rao sự cuối cùng từ buổi đầu tiên, và đã nói từ thuở xưa những sự chưa làm nên. Ta phán rằng: Mưu của ta sẽ lập, và ta sẽ làm ra mọi sự ta đẹp ý.
Ê-sai 55:11. Lời nói của ta cũng vậy, đã ra từ miệng ta, thì chẳng trở về luống nhưng, mà chắc sẽ làm trọn điều ta muốn, thuận lợi công việc ta đã sai khiến nó.
CHÚA CỨU NHỮNG NGƯỜI ĐƯỢC CHỌN
Giăng 6:37. Phàm những kẻ Cha cho ta sẽ đến cùng ta, kẻ đến cùng ta thì ta không bỏ ra ngoài đâu.
Giăng 6:29. Đức Chúa Giê-su đáp rằng: Các ngươi tin Đấng mà Đức Chúa Trời đã sai đến, ấy đó là công việc Ngài.
ĐỨC CHA SINH RA NHỮNG NGƯỜI MÀ NGÀI ĐÃ TUYỂN CHỌN
Gia-cơ 1:18. Ấy chính Ngài theo ý muốn mình, đã dùng lời chân thật sanh chúng ta, hầu cho chúng ta được nên như trái đầu mùa của những vật Ngài dựng nên.
Giăng 1:13. Là kẻ chẳng phải sanh bởi khí huyết, hoặc bởi tình dục, hoặc bởi ý người, nhưng sanh bởi Đức Chúa Trời vậy.
HOÀN THÀNH ƠN CỨU CHUỘC BẰNG CÁCH BAN CHO SỰ SỐNG
Giăng 5:21. Vả, Cha khiến những kẻ chết sống lại và ban sự sống cho họ thể nào, thì Con cũng ban sự sống cho kẻ Con muốn thể ấy.
Ê-phê-sô 2:4- 5. Nhưng Đức Chúa Trời, là Đấng giàu lòng thương xót, vì cớ lòng yêu thương lớn Ngài đem mà yêu chúng ta, Tín đồ nghe bấy nhiêu lời xong, đều thỏa thuận và ngợi khen Đức Chúa Trời, rằng: Vậy Đức Chúa Trời cũng đã ban sự ăn năn cho người ngoại để họ được sự sống! nên đang khi chúng ta chết vì tội mình, thì Ngài làm cho chúng ta sống với Đấng Christ – ấy là nhờ ân điển mà anh em được cứu
Công Vụ.11:18. Vậy Đức Chúa Trời cũng đã ban sự ăn năn cho người ngoại để họ được sự sống!
ƠN CỨU CHUỘC ĐƯỢC ÁP DỤNG CÁCH HIỆU QUẢ LÀ NHỜ ĐỨC THÁNH LINH
Tít 3:5. Đức Chúa Trời không cứu vì việc công bình chúng ta đã làm, nhưng cứ theo lòng thương xót Ngài, bởi sự rửa về sự lại sanh và sự đổi mới của Đức Thánh Linh
2 Cô-rinh-tô 3:18. Chúng ta ai nấy đều để mặt trần mà nhìn xem vinh hiển Chúa như trong gương, thì hóa nên cũng một ảnh tượng Ngài, từ vinh hiển qua vinh hiển, như bởi Chúa là Thánh Linh.
Trong Công Vụ chương 9, Phao-lô (trước đó có tên Sau-lơ) là một minh họa về ân điển không thể cưỡng lại. Đang khi ông bách hại đạo Chúa, thì Chúa đã bày tỏ chính Ngài cho ông và ban sự cứu rỗi cho ông.
Điểm 5
QUAN ĐIỂM CỦA NGƯỜI ARMINIAN
Rơi khỏi ân điển.
Kết luận hợp lý của thuyết Arminian là vì sự cứu rỗi là kết quả của sự tự quyết của con người khi họ sử dụng ý chí tự do của mình trong việc lựa chọn Đấng Christ, nên con người cũng có trách nhiệm với bản thân bằng cách tiếp tục giữ vững đức tin và vâng lời để được cứu. Nếu sau khi đã tin nhận Đấng Christ mà quyết định chống lại Ngài, hay nếu người ấy thấy trách nhiệm sống một đời sống thánh khiết là một gánh nặng quá lớn và quay lưng lại với Chúa, thì chắc chắn người ấy sẽ rơi ra khỏi ân điển và bị hư mất.
Ga-la-ti 5:4. Anh em thảy đều muốn cậy luật pháp cho được xưng công bình, thì đã lìa khỏi Đấng Christ, mất ân điển rồi.
Hê-bơ-rơ 6:4-6. Vì chưng những kẻ đã được soi sáng một lần, đã nếm sự ban cho từ trên trời, dự phần về Đức Thánh Linh, nếm đạo lành Đức Chúa Trời, và quyền phép của đời sau, nếu lại vấp ngã, thì không thể khiến họ lại ăn năn nữa, vì họ đóng đinh Con Đức Chúa Trời trên thập tự giá cho mình một lần nữa, làm cho Ngài sỉ nhục tỏ tường
Hê-bơ-rơ 10:26-27. Vì nếu chúng ta đã nhận biết lẽ thật rồi, mà lại cố ý phạm tội, thì không còn có tế lễ chuộc tội nữa, nhưng chỉ có sự đợi chờ kinh khiếp về sự phán xét, và lửa hừng sẽ đốt cháy kẻ bội nghịch mà thôi.
TẠI SAO LÀ CHỨNG NHÂN? TẠI SAO LÀ THÁNH?
Người Arminian thường buộc tội người Calvinist là quá tin vào Kinh Thánh đến nỗi từ bỏ mong muốn làm chứng nhân và sống một cuộc đời thánh thiện. Arminian đặt câu hỏi: Tại sao chúng ta phải làm chứng nếu sự lựa chọn là vô điều kiện, và tại sao chúng ta nên tìm cách sống một đời sống thánh khiết nếu đúng là đã được cứu thì luôn được cứu (Phi-e-rơ 1:15-16)?
Các câu trả lời trong Kinh Thánh khá đơn giản. Chúng ta làm chứng vì Lời Chúa dạy: “Các ngươi sẽ làm chứng về ta” (Công vụ 1:8). Phao-lô bày tỏ: “Chúng tôi là sứ giả của Đấng Christ, dường như Đức Chúa Trời đã nhân danh chúng tôi mà nài xin anh em: thay cho Đấng Christ, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hòa với Đức Chúa Trời” (2 Côr. 5:20). Chúng ta làm chứng nhân cho Chúa, vì chính nhờ “sự rao giảng điên rồ” mà Đức Chúa Trời vui lòng cứu những người tin. Tuy nhiên, không phải nhờ việc chúng ta sử dụng tâm lý học, các phương pháp và cách tiếp cận đúng đắn mà con người được cứu rỗi, nhưng nhờ quyền năng của Đức Chúa Trời qua Lời Ngài mà thôi. Chúng ta làm chứng vì chúng ta là những người “cùng làm việc với Đức Chúa Trời” (1 Cô-rinh-tô 3:9). Chúng ta rao giảng theo sự kêu gọi của Ngài. Chúng ta rao giảng Lời Ngài. Chúng ta trồng và tưới, nhưng chỉ một mình Đức Chúa Trời mới làm cho lớn lên.
“Vậy chúng ta sẽ nói làm sao? Chúng ta phải cứ ở trong tội lỗi, hầu cho ân điển được dư dật chăng? Chẳng hề như vậy! Chúng ta đã chết về tội lỗi, lẽ nào còn sống trong tội lỗi nữa?” (Rô-ma 6:1-2). “Vì chúng ta là việc Ngài làm ra, đã được dựng nên trong Đức Chúa Giê-su Christ để làm việc lành mà Đức Chúa Trời đã sắm sẵn trước cho chúng ta làm theo” (Ê-phê-sô 2:10).
Chúa Giê-su dạy, “Ấy vậy, các ngươi nhờ những trái nó mà nhận biết được” (Ma-thi-ơ 7:20).
Giống như một con heo thích đắm mình trong vũng bùn vì đó là bản chất của nó như vậy, và một con chiên chạy trốn khỏi vũng bùn cũng vì lý do đó.
Hãy nghe lời của sứ đồ Phi-e-rơ: “và bởi vinh hiển nhân đức ấy, Ngài lại ban lời hứa rất quí rất lớn cho chúng ta, hầu cho nhờ đó anh em được lánh khỏi sự hư nát của thế gian bởi tư dục đến, mà trở nên người dự phần bổn tánh Đức Chúa Trời” (2 Phi-e-rơ 1:4).
Sự kiên trì của các thánh đồ
QUAN ĐIỂM CALVINIST
Kết luận hợp lý của thuyết Calvin là vì “sự cứu rỗi là của CHÚA” và hoàn toàn không có phần nào phụ thuộc vào bất kỳ điều kiện nào được tìm thấy trong con người, mà hoàn toàn phụ thuộc vào Đức Chúa Trời, Đấng đã muốn cứu những người mà Ngài đã chọn. Sự cứu rỗi không bao giờ có thể bị đánh mất. Các thánh đồ của Đức Chúa Trời chắc chắn sẽ kiên trì vì Ngài đã ban cho họ lời hứa của Ngài rằng không thế lực nào có thể cướp họ khỏi tay Ngài (kể cả chính họ). Chúng ta sẽ kiên trì trong đức tin vì Ngài làm cho chúng ta kiên trì!
SỰ KIÊN TRÌ CỦA CÁC THÁNH ĐỒ PHỤ THUỘC VÀO ĐỨC CHÚA TRỜI
Giu-đe 24. Vả, nguyền Đấng có thể gìn giữ anh em khỏi vấp phạm và khiến anh em đứng trước mặt vinh hiển mình cách rất vui mừng, không chỗ trách được
Giu-đe 1. Giu-đe, tôi tớ của Đức Chúa Giê-su Christ và em Gia-cơ, đạt cho những kẻ đã được kêu gọi, được Đức Chúa Trời, là Cha, yêu thương, và được Đức Chúa Giê-su Christ giữ gìn.
Ê-xê-chi-ên 11:19. Ta sẽ ban cho chúng nó một lòng đồng nhau, phú thần mới trong các ngươi; bỏ lòng đá khỏi xác thịt chúng nó, và sẽ cho chúng nó lòng thịt.
Ê-xê-chi-ên 36:27. Ta sẽ đặt Thần ta trong các ngươi, và khiến các ngươi noi theo luật lệ ta, thì các ngươi sẽ giữ mạng lịnh ta và làm theo.
Phục Truyền. 30:6. Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi sẽ cất sự ô uế khỏi lòng ngươi và khỏi lòng dòng dõi ngươi, để ngươi hết lòng hết ý kính mến Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, hầu cho ngươi được sống.
KHÔNG PHỤ THUỘC VÀO SỰ TUYỂN CHỌN
1 Phi-e-rơ 1:5. Là kẻ bởi ức tin nhờ quyền phép của Đức Chúa Trời giữ cho, để được sự cứu rỗi gần hiện ra trong kỳ sau rốt!
2 Ti-mô-thê 1:12. Ấy lại là cớ mà ta chịu khổ. Nhưng ta chẳng hề hổ thẹn, vì biết ta đã tin Đấng nào, chắc rằng Đấng ấy có quyền phép giữ sự ta đã phó thác cho đến ngày đó.
2 Ti-mô-thê 4:18. Chúa sẽ giải thoát ta khỏi mọi điều ác và cứu vớt ta vào trong nước trên trời của Ngài. Nguyền xin sự vinh hiển về nơi Ngài muôn đời không cùng! A-men.
ĐỨC CHÚA TRỜI SẼ LÀM CHO CÁC THÁNH ĐỒ KIÊN TRÌ TRONG ĐỨC TIN
Thi Thiên 37:28. Vì Đức Giê-hô-va chuộng sự công bình. Không từ bỏ người thánh của Ngài; họ được Ngài gìn giữ đời đời. Còn dòng dõi kẻ dữ sẽ bị diệt đi.
1 Tê-sa-lô-ni-ca 5:23-24. Nguyền xin chính Đức Chúa Trời bình an khiến anh em nên thánh trọn vẹn, và nguyền xin tâm thần, linh hồn, và thân thể của anh em đều được giữ vẹn, không chỗ trách được, khi Đức Chúa Giê-su Christ chúng ta đến. Đấng đã gọi anh em là thành tín, chính Ngài sẽ làm việc đó.
Phi-líp 1:6. Tôi tin chắc rằng Đấng đã khởi làm việc lành trong anh em, sẽ làm trọn hết cho đến ngày của Đức Chúa Giê-su Christ.
VÌ VẬY SỰ CỨU RỖI KHÔNG THỂ BỊ ĐÁNH MẤT
Giăng 6:39. Vả, ý muốn của Đấng đã sai ta đến, là hễ sự gì Ngài đã ban cho ta, thì ta chớ làm mất, nhưng ta phải làm cho sống lại nơi ngày sau rốt.
Giăng 10:26-29. Nhưng các ngươi không tin ta, vì các ngươi chẳng phải là chiên của ta. Chiên ta nghe tiếng ta, ta quen nó, và nó theo ta. Ta ban cho nó sự sống đời đời; nó chẳng chết mất bao giờ, và chẳng ai cướp nó khỏi tay ta. Cha ta là Đấng lớn hơn hết đã cho ta chiên đó, và chẳng ai cướp nổi chiên đó khỏi tay Cha.
Rô-ma 8:37-39. Trái lại, trong mọi sự đó, chúng ta nhờ Đấng yêu thương mình mà thắng hơn bội phần. Vì tôi chắc rằng bất kỳ sự chết, sự sống, các thiên sứ, các kẻ cầm quyền, việc bây giờ, việc hầu đến, quyền phép, bề cao, hay là bề sâu, hoặc một vật nào, chẳng có thể phân rẽ chúng ta khỏi sự yêu thương mà Đức Chúa Trời đã chứng cho chúng ta trong Đức Chúa Giê-su Christ, là Chúa chúng ta.
Thư mục
Boettner, Loraine. The Reformed Doctrine of Predestination. Philadelphia: Presbyterian and Reformed Publishing Co., 1992.
Calvin, John. Concerning the Eternal Predestination of God. Translated by J. K. Reid. Louisville: Westminster John Knox Press, 1997.
Edwards, Jonathan. Freedom of the Will. Edited by Paul Ramsey. New Haven: Yale University Press, 1957.
Luther, Martin. The Bondage of the Will Translated by J. I. Packer. Grand Rapids: Revell, 1957.
Palmer, Edwin H. Five Points of Calvinism: A Study Guide. Grand Rapids: Baker, 1972.
Pink, Arthur W. Attributes of God. Grand Rapids: Baker, 1988. Sovereignty of God. Grand Rapids: Baker, 1984.
Sproul, R. C. Grace Unknown. Grand Rapids: Baker, 1997. Willing to Believe. Grand Rapids: Baker, 1997.
Spurgeon, C. H. Election. Pasadena: Pilgrim Press, 1978.
Steele, David, and Curtis C. Thomas. Five Points of Calvinism. Louisville: Presbyterian and Reformed Publishing Co., 1989.
Vance, Laurence M. The Other Side of Calvinism. Pensacola: Vance Publi-cations, 1999.
GIỚI THIỆU VỀ SÁCH VÀ TÁC GIẢ (trang bìa sau)
TULIP là từ viết tắt phổ biến cho năm điểm của thuyết Calvin: hoàn toàn sa đọa, sự tuyển chọn vô điều kiện, chuộc tội có giới hạn, ân sủng không thể cưỡng lại, và sự kiên trì của các thánh đồ.
Trong cuốn sách kinh điển này, năm điểm trên được giải thích ngắn gọn dưới ánh sáng của Kinh thánh. Chúng cũng tương phản với năm điểm tương ứng của thuyết Arminian.
Trước đây tác giả là người bị thuyết Arminian thuyết phục, Duane Edward Spencer chia sẻ những hiểu biết sâu sắc mà ông có được khi tìm kiếm Kinh Thánh để “xem những điều của thuyết Arminian có đúng như vậy không”. Ông cung cấp những đoạn trích về lịch sử giáo hội và những phần chọn lọc từ Bản Tuyên xưng Đức tin của Westminster (1648) để bổ sung cho những lời giải thích ngắn gọn của ông.
Niềm tin cơ bản của cả người Arminian và người theo thuyết Calvin, cùng với Kinh Thánh được mỗi bên sử dụng để hỗ trợ quan điểm của mình được tóm tắt ở cuối cuốn sách để chúng ta có thể tham khảo nhanh chóng và dễ dàng.
DUANE EDWARD SPENCER là mục sư của Hội Thánh Trưởng Lão Chính Thống Ân Điển ở San Antonio, Texas.
Translated by Hon Pham
The end
The post 5 Luận Điểm Của Calvin appeared first on Hướng Đi Ministries.